Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân để bảo vệ bản thân và người khác trước hành vi xâm hại. Tuy nhiên, khi việc chống trả vượt quá mức cần thiết, gây thương tích cho người tấn công thì người thực hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015.

1. Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là gì?

  • Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi của một người trong khi thực hiện quyền phòng vệ chính đáng của mình để chống trả lại một hành vi tấn công trái pháp luật, đã cố ý gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho chính người đang tấn công mình. Hành vi chống trả đó rõ ràng là quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công.
  • Có thể nói, tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trường hợp đặc biệt. Pháp luật thừa nhận người phạm tội hành động trong một hoàn cảnh bị kích động về tinh thần do phải chống trả một cuộc tấn công trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng không cho phép họ lạm dụng quyền phòng vệ để gây ra những tổn hại rõ ràng là không cần thiết cho người tấn công.
  • Do đó, Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội cố ý gây thương tích thông thường (tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015) và được quy định bởi một khung hình phạt nhẹ hơn.

2. Cấu thành Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

2.1. Cơ sở pháp lý:

Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hiện nay đang được quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”

2.2. Khách thể:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 gồm 02 tội là:

  • Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  • Và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội.

Phòng vệ chính đáng là một trong những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 22 và Điều 24 Bộ luật Hình sự 2015. Có nghĩa là con người có quyền phòng vệ chính đáng và bắt giữ người phạm tội, tuy nhiên quyền này được giới hạn ở “mức cần thiết”.

Xem thêm:  Tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015

Khoản 1 Điều 22 quy định Bộ luật Hình sự 2015: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

Khoản 2 Điều 22 quy định Bộ luật Hình sự 2015: Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Theo đó, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường hợp người phòng vệ chính đáng thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết gây ra hậu quả tổn hại sức khỏe người khác từ 31% trở lên.

Khách thể của tội phạm này là xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe con người (quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe).

2.3. Mặt khách quan:

Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trái quy định pháp luật. Tuy nhiên ngay trước khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người phạm tội đã thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng theo Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải thỏa mãn các điều kiện sau:

  • Hành vi của nạn nhân là hành vi phạm tội hoặc là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức;
  • Hành vi xâm hại của nạn nhân phải đang diễn ra, đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc.
  • Hậu quả xảy ra là nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên;
  • Hành vi phòng vệ của người phạm tội không tương xứng với hành vi xâm hại của nạn nhân.

2.4. Chủ thể:

Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 

Chủ thể của Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là:

  • Người nào từ đủ 16 tuổi trở lên;
  • Và có năng lực trách nhiệm hình sự (người phạm tội phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).

Chủ thể của tội phạm này có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch và đang trong tình thế phòng vệ chính đáng. Trường hợp một tổ các chiến sĩ công an, bộ đội làm nhiệm vụ bắt giữ người và có sử dụng vũ lực vượt quá mức cần thiết thì không được coi là đồng phạm hay phạm tội có tổ chức.

2.5. Mặt chủ quan:

  • Cá nhân thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nhưng lỗi vô ý đối với hậu quả xảy ra (có thể là lỗi vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả).
  • Người phạm tội có động cơ phòng vệ chính đáng. Đây hoàn toàn là động cơ tốt, bảo vệ lợi ích của bản thân, của người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức.
  • Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả gây tổn hại đến sức khỏe nạn nhân có thể xảy ra những vẫn tự tin rằng hậu quả không xảy ra, không quá ảnh hưởng đến nạn nhân hoặc do lỗi cẩu thả, chủ quan cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra.

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến!
  • Hoặc liên hệ Hotline: 058.7999997 để được sử dụng dịch vụ Luật sư hình sự!

3. Hình phạt của Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 quy định 03 khung hình phạt như sau:

Khung 1: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với trường hợp:

  • Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  • Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.
Xem thêm:  Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh

Khung 2: Phạt phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp:

  • Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
  • Hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.

Khung 3: Phạt phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong trường hợp:

  • Phạm tội dẫn đến chết người;
  • Hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
  • Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.

4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 136:

  • Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% theo điểm a khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025): 
    • Tình tiết này tăng nặng trách nhiệm hình sự dựa trên số lượng nạn nhân. Thay vì chỉ gây thương tích cho một người, người phạm tội đã gây thương tích cho từ 02 người trở lên;
    • Mức độ tổn thương của mỗi nạn nhân vẫn nằm trong giới hạn của khung cơ bản (từ 31% đến 60%) nhưng hành vi được coi là nguy hiểm hơn vì đã xâm phạm đến sức khỏe của nhiều người.
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015: 
    • Tình tiết này tăng nặng trách nhiệm hình sự dựa trên mức độ nghiêm trọng của hậu quả;
    • Dù chỉ gây thương tích cho một người nhưng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên là rất cao, cho thấy tính chất nguy hiểm của hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ đã gây ra một tổn hại đặc biệt nghiêm trọng cho sức khỏe của nạn nhân.

4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 136:

  • Phạm tội dẫn đến chết người:
    • Đây là tình tiết định khung có hậu quả nghiêm trọng nhất. Hành vi cố ý gây thương tích ban đầu (do vượt quá giới hạn phòng vệ) đã dẫn đến hậu quả ngoài ý muốn là làm chết người;
    • Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội đối với hậu quả chết người là lỗi vô ý;
    • Pháp luật hình sự coi việc tước đoạt tính mạng con người là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, do đó quy định mức hình phạt cao nhất trong điều luật này.
  • Gây thương tích cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên:
    • Số lượng nạn nhân nhiều (từ 02 người trở lên);
    • Mức độ thương tích của mỗi nạn nhân đều rất nghiêm trọng (từ 61% trở lên);
    • Hành vi này thể hiện mức độ nguy hiểm cao nhất khi không những xâm phạm đến sức khỏe của nhiều người mà còn gây ra những tổn hại đặc biệt lớn cho từng người trong số họ.

5. Phân biệt Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:

Tiêu chí so sánh

Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Cơ sở pháp lý

Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015.

Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015.

Khái niệm

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Là trường hợp người bị kích động mạnh về tâm lý do hành vi trái pháp luật của người khác đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình dẫn đến làm mất khả năng hạn chế và điều khiển hành vi mà thực hiện hành vi phạm tội đối với người đang có hành vi trái pháp luật nêu trên.

Trạng thái kích động

Người phạm tội có thể có hoặc không trong trạng thái tinh thần bị kích động.

Trạng thái tinh thần bị kích động là biểu hiện đặc trưng của phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Trách nhiệm hình sự

Người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của mình.

Phạm tội trong tình thần bị kích động mạnh là một trong những căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đặc trưng

Phải là hành vi chống trả vượt quá mức cần thiết. Để xem xét vấn đề này phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như:

  • Khách thể cần bảo vệ;
  • Mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra;
  • Vũ khí, phương tiện và phương pháp mà 02 bên đã sử dụng; 
  • Nhân thân của người xâm hại.

Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là nhân tố chính làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.

Các yếu tố cấu thành tội phạm 

Về phía nạn nhân: Là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác. Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm.

Về phía người phòng vệ: Gây thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm.

Hành vi chống trả vượt quá mức cần thiết: Là việc phòng vệ chống trả quá mức cần thiết không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại thì hành vi đó đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Trạng thái tinh thần của người phạm tội phải ở trạng thái bị kích động: Là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước.

Phải có hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác.

Hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội  bị kích động mạnh về tinh thần.

Xem thêm:  Tội gây thương tích trong khi thi hành công vụ theo Điều 137

6. Bản án điển hình về Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

  • Nội dung bản án:

Tối ngày 10/12/2020, Bùi Linh N đã có hành vi dùng dao khua nhiều nhát về phía đám người đánh mình là Bùi Văn C, Bùi Hải D, Bùi Văn L và Bùi Thanh T làm Bùi Hải D bị chém vào cằng tay của Bùi Hải D gây tổn hại sức khoẻ cho Bùi Hải D 32%. 

Hành vi của Bùi Linh N thực hiện khi bị cáo bị các đối tượng nêu trên vây đánh và trong tư thế nằm dưới đất sau khi bị đạp ngã bất ngờ và không kịp chạy. Mục đích khua dao về phía các đối tượng nhằm ngăn cản, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật của các đối tượng trên khi bị xâm hại sức khoẻ, tính mạng. 

Khi đó, Bùi Linh N không có phương án lựa chọn nào khác nên hành vi trên được coi là hành vi phòng vệ của Bùi Linh N. Tuy nhiên, các đối tượng dùng tay, chân đánh bị cáo nhưng bị cáo lại dùng dao gây ra thương tích tới 32% sức khoẻ cho Bùi Hải D, bản thân bị cáo không có tổn thương nghiêm trọng nào. Do đó, hành vi phòng vệ của bị cáo rõ ràng là quá mức cần thiết.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Hải D nằm trong khoảng 31% đến 60%. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

  • Quyết định của Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Bùi Linh N phạm tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *