Vai trò ý kiến của con trong việc quyết định quyền nuôi con?

Trong các vụ án ly hôn, một trong những vấn đề nhạy cảm nhất là quyết định ai sẽ là người trực tiếp nuôi con. Pháp luật Việt Nam với tinh thần đặt lợi ích của con lên hàng đầu, đã có những quy định cụ thể ghi nhận tiếng nói của con trong quá trình này. Vậy, ý kiến của con trong việc quyết định quyền nuôi con có vai trò như thế nào?

1. Ý kiến của con cái trong việc quyết định quyền nuôi con:

1.1. Cơ sở pháp lý ghi nhận việc lấy ý kiến của con khi giành quyền nuôi con:

Nền tảng pháp lý cho việc xem xét ý kiến của con trong các vụ án ly hôn được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật quan trọng sau:

a. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Đây là quy định mang tính cốt lõi, khẳng định một cách trực tiếp rằng khi con đã đạt đến một độ tuổi nhất định (từ đủ 07 tuổi) thì sẽ được hỏi ý kiến khi cha mẹ ly hôn. Ý kiến, nguyện vọng của con không chỉ đơn thuần là một yếu tố tham khảo mà là một trong những căn cứ bắt buộc Tòa án phải xem xét khi đưa ra phán quyết cuối cùng.

b. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:

Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

  • Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;
  • Vật chứng;
  • Lời khai của đương sự;
  • Lời khai của người làm chứng;
  • Kết luận giám định;
  • Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
  • Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
  • Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
  • Văn bản công chứng, chứng thực;
  • Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.

Theo đó, ý kiến của con được coi là một nguồn chứng cứ quan trọng để Tòa án có thể đánh giá một cách toàn diện “quyền lợi về mọi mặt” của con cái khi giải quyết ly hôn.

c. Luật Trẻ em năm 2016:

Điều 34 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng.

Theo đó các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm lắng nghe, xem xét và phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em.

1.2. Ý kiến của con trong việc quyết định quyền nuôi con có vai trò gì?

Việc pháp luật quy định phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên mang nhiều ý nghĩa như sau:

a. Tôn trọng nhân quyền của trẻ em: 

  • Đứa trẻ không phải là một tài sản để cha mẹ tranh giành, mà là một chủ thể của quyền;
  • Việc lắng nghe ý kiến của con thể hiện sự tôn trọng đối với nhân cách, suy nghĩ và tình cảm của một con người độc lập dù còn nhỏ tuổi.

b. Đảm bảo tốt nhất quyền lợi của trẻ em:

  • Không ai hiểu rõ những mong muốn, tình cảm và cảm giác an toàn của đứa trẻ hơn chính bản thân đứa nhỏ;
  • Nguyện vọng được sống cùng ai (cha hoặc mẹ) phản ánh sự gắn bó, tin tưởng và môi trường sống mà con cảm thấy phù hợp nhất cho sự phát triển của mình;
  • Đây là một chỉ dấu quan trọng giúp Tòa án nhận định đâu là môi trường sẽ đảm bảo tốt nhất sự ổn định về tâm lý và tình cảm cho con.
Xem thêm:  Sau ly hôn muốn đòi lại quyền nuôi con cần có điều kiện gì?

c. Là căn cứ quan trọng cho phán quyết của Tòa án:

Trong bối cảnh cả cha và mẹ đều có thể đưa ra những lý lẽ và chứng cứ về điều kiện vật chất ngang bằng nhau, nguyện vọng của con thường trở thành một trong những căn cứ có sức nặng giúp Tòa án đưa ra một quyết định khách quan và công bằng hơn, từ đó tránh các phán quyết chỉ dựa trên cảm tính hoặc các yếu tố vật chất đơn thuần.

1.3. Giá trị pháp lý của ý kiến con khi Tòa án quyết định quyền nuôi:

a. Ý kiến của con là một yếu tố tham khảo và không mang tính quyết định tuyệt đối:

Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 chỉ quy định “phải xem xét nguyện vọng của con” khi ra quyết định chứ không bắt buộc Tòa án phải quyết định theo nguyện vọng đó.

Điều này có nghĩa là, dù trẻ bày tỏ mong muốn ở với cha hoặc mẹ thì Tòa án vẫn sẽ đánh giá toàn diện các yếu tố khác như:

  • Đều kiện kinh tế;
  • Môi trường sống;
  • Thời gian chăm sóc và nhân thân của người nuôi dưỡng.

Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ, tránh tình trạng quyết định dựa hoàn toàn vào ý kiến có thể bị tác động và dụ dỗ.

b. Trường hợp ý kiến con trùng với đánh giá của Tòa án về điều kiện nuôi dưỡng:

Nếu ý kiến của con phù hợp với đánh giá của Tòa án về điều kiện nuôi dưỡng, đây sẽ là yếu tố quan trọng củng cố phán quyết.

Ví dụ: Trẻ mong muốn ở với mẹ và Tòa án nhận thấy mẹ có thu nhập ổn định, môi trường sống an toàn, điều kiện chăm sóc tốt thì khả năng cao phán quyết sẽ theo nguyện vọng của trẻ. Khi ý kiến và điều kiện khách quan thống nhất, quyết định của Tòa án sẽ có tính thuyết phục và khả năng thi hành cao hơn.

c. Trường hợp ý kiến con mâu thuẫn với lợi ích tốt nhất của trẻ:

Nếu ý kiến của con trái ngược với lợi ích tốt nhất của trẻ, Tòa án có quyền quyết định khác.

Ví dụ: Trẻ muốn ở với cha nhưng cha không có thu nhập ổn định, thường xuyên vắng nhà hoặc có hành vi bạo lực thì Tòa án sẽ không chấp nhận nguyện vọng này. Trong những tình huống như vậy, Tòa án thường ghi rõ lý do không chấp nhận ý kiến của trẻ trong bản án để tránh khiếu nại, đồng thời thể hiện sự bảo vệ quyền lợi của trẻ một cách khách quan.

2. Cách lấy ý kiến của con khi ly hôn như thế nào cho đúng?

Khi phân chia quyền nuôi con sau khi ly hôn, vợ chồng được quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền hạn của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con căn cứ theo khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Khi vợ, chồng không thỏa thuận được việc nuôi con thì điều này sẽ do Tòa án quyết định. Theo đó, con từ đủ 07 tuổi trở lên sẽ lấy ý kiến của con về việc muốn sống với bố hay mẹ.

Điều 208 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định:

  • Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án;
  • Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên.

Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn cụ thể việc lấy ý kiến của con phải đảm bảo các yếu tố sau:

  • Bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình;
  • Không lấy ý kiến trước mặt cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho con; 
  • Không ép buộc, không gây áp lực, căng thẳng cho con.

Như vậy: Việc lấy ý kiến của trẻ phải bảo đảm thân thiện với trẻ em, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ và khả năng nhận thức của trẻ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ. Đặc biệt, vệc lấy ý kiến phải đảm bảo giữ bí mật cá nhân của trẻ. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của trẻ để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Trong trường hợp một bên được giao quyền nuôi dưỡng con, bên còn lại phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo Điều 107 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Xem thêm:  Trường hợp nào cha và mẹ đều không có quyền nuôi con?

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật về quyền nuôi con!
  • Hoặc liên hệ: 058.7999997 để sử dụng dịch vụ Luật sư giành quyền nuôi con!

3. Ý kiến của con có phải là quyết định duy nhất trong việc giành quyền nuôi con không?

Khi phân chia quyền nuôi con sau khi ly hôn, vợ chồng được quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền hạn của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con căn cứ theo khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Nếu không thỏa thuận được, Tòa án quyết định giao con cho chồng hoặc vợ nuôi, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con. Đặc biệt, trong trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Theo đó, trong quá trình giải quyết thì Thẩm phán sẽ hỏi ý kiến của con, nguyên vọng của con muốn sống cùng mẹ hay cha? Tuy nhiên, ý kiến của con thường chỉ mang tính xem xét, định hướng và tham khảo. Đây là một phần để Tòa án xem xét đi đến quyết định chứ không có ý nghĩa quyết định hoàn toàn.

Như vậy: Ý kiến của con sẽ không hoàn toàn quyết định ai là người có quyền trực tiếp nuôi con mà chỉ mang tính tham khảo. Việc quyết định ai có quyền nuôi con khi ly hôn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: Chỗ ở, thu nhập, thời gian chăm sóc con… của mỗi bên nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. 

4. Các yếu tố khác cùng được xem xét bên cạnh ý kiến của con:

4.1. Điều kiện kinh tế, chỗ ở và môi trường sống:

  • Tòa án đánh giá thu nhập ổn định, khả năng cung cấp nhu cầu thiết yếu và nơi ở phù hợp của cha hoặc mẹ;
  • Điều này bao gồm cả việc trẻ có được sống trong môi trường lành mạnh, gần trường học, cơ sở y tế và có sự hỗ trợ từ gia đình, họ hàng;
  • Ngay cả khi ý kiến của con nghiêng về một bên, nếu điều kiện sống không đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu thì Tòa án vẫn có thể quyết định giao quyền nuôi cho bên còn lại.

4.2. Yếu tố tinh thần, tình cảm và khả năng chăm sóc của cha hoặc mẹ:

  • Yếu tố tình cảm được xem là phần “mềm” nhưng có sức nặng trong quyết định của Tòa án;
  • Việc ai là người gắn bó, trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, đồng hành với trẻ từ trước tới nay sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng;
  • Ví dụ: Nếu trẻ muốn ở với cha vì cha nuông chiều nhưng trong thực tế mẹ mới là người trực tiếp chăm sóc hàng ngày thì Tòa án sẽ đánh giá lại dựa trên yếu tố ổn định tinh thần của trẻ.

4.3. Tiền sử bạo lực gia đình, vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng:

  • Nếu một bên từng có hành vi bạo lực gia đình hoặc bỏ bê nghĩa vụ nuôi dưỡng. Đây sẽ là yếu tố bất lợi lớn khi xét quyền nuôi con (ngay cả khi trẻ bày tỏ mong muốn ở với bên đó);
  • Tòa án có thể sử dụng: Hồ sơ bệnh viện, biên bản xử lý của công an hoặc lời khai của nhân chứng… để làm căn cứ;
  • Điều này nhằm bảo đảm trẻ được sống trong môi trường an toàn cả về thể chất và tinh thần.

Kết luận: Cần phải nhấn mạnh rằng, mặc dù ý kiến của con là yếu tố bắt buộc phải xem xét, nhưng đó không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Tòa án sẽ xem xét nguyện vọng của con trong mối tương quan với tất cả các yếu tố khác để đảm bảo “quyền lợi về mọi mặt” cho con, bao gồm:

  • Điều kiện vật chất: Khả năng tài chính, nhà ở, điều kiện sinh hoạt mà mỗi bên có thể cung cấp;
  • Yếu tố tinh thần: Thời gian chăm sóc, giáo dục con; tình yêu thương, sự quan tâm; đạo đức, lối sống của cha, mẹ;
  • Môi trường sống: Sự ổn định trong môi trường học tập, sinh hoạt của con;
  • Các yếu tố khác: Ai là người trực tiếp chăm sóc con từ trước đến nay, sự hỗ trợ từ gia đình hai bên…

5. Ví dụ về phán quyết của Tòa án dựa trên nguyện vọng của con:

Trong vụ án ly hôn, việc Toà án giao quyền trực tiếp nuôi con sau ly hôn cho ai phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phán quyết của Toà án đó chính là nguyện vọng của đứa trẻ. 

Thông tin bản án: Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 07/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

5.1. Tóm tắt nội dung cơ bản của vụ án:

Nguyên đơn là anh Bùi Văn Minh và bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy.

Xem thêm:  Thi hành án quyền nuôi con, cưỡng chế thi hành án giao con

Thứ nhất, về quan hệ hôn nhân: Anh Minh và chị Thúy kết hôn với nhau vào năm 1993, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/4/1993 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Năm 1996, anh Minh và chị Thúy vào Đồng Tháp lập nghiệp. Thời gian đầu anh Minh và chị Thúy sống hạnh phúc nhưng sau đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do có những bất đồng quan điểm sống. Mặc dù anh Minh và chị Thúy đã nhiều lần tìm cách khắc phục nhưng không được, anh Minh nhận thấy mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được, nếu kéo dài sẽ không hạnh phúc. Năm 2016, anh Minh nộp đơn yêu cầu Tòa án thành phố Cao Lãnh giải quyết ly hôn, chia tài sản chung, nợ chung. Tòa án thành phố Cao Lãnh giải quyết bằng bản án sơ thẩm 32/2018/HNGĐ – ST ngày 16 tháng 5 năm 2018, sau đó anh Minh và chị Thúy cùng kháng cáo. Quyết định phúc thẩm số 26/2018/QĐPT – HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp giải quyết phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm để vợ chồng thỏa thuận về vấn đề tài sản chung đến nay, anh Minh và chị Thúy không cải thiện được mâu thuẫn vợ chồng nên anh Minh yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Thúy.

Thứ hai, về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên:

  • Bùi Văn Tuấn, sinh ngày 16/10/1993;
  • Bùi Duy Tân, sinh ngày 13/8/2003.

Bùi Văn Tuấn đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bùi Duy Tân hiện nay đang sống với chị Thúy.

5.2. Nhận định của Tòa án về vụ án:

Thứ nhất: Bùi Văn Tuấn đã trưởng thành, anh Minh và chị Thúy không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Thứ hai: Bùi Duy Tân (sinh năm 2003) hiện nay đang sống với chị Thúy. Tại phiên tòa anh Minh trình bày anh Minh đồng ý việc chị Thúy trực tiếp nuôi con chung Bùi Duy Tân, sinh ngày 13/8/2003. Chị Thúy không có lời trình bày tại phiên tòa nhưng lời trình bày của anh Minh phù hợp với lời trình bày của chị Thúy tại phiên hòa giải và phù hợp với nguyện vọng của con cháu Bùi Duy Tân nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc chị Thúy được trực tiếp nuôi con chung tên Bùi Duy Tân, sinh ngày 13/8/2003.

5.3. Quyết định của Tòa án:

  • Chị Nguyễn Thị T được trực tiếp nuôi con chung tên Bùi Duy Tân (SN 2003) hiện nay con chung đang sống với chị Thúy;
  • Về cấp dưỡng, anh Minh và chị Thúy không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết;
  • Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

5.4. Nhận định từ Luật sư:

Điểm đặc biệt của vụ án này là tuy vợ chồng chị có 02 con chung nhưng không phải mặc định mỗi người được quyền nuôi dưỡng 01 con. Tòa án đã căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng của cha, mẹ và nguyện vọng của các con để ra quyết định cho chị Thúy được nuôi người con út.

Nhiều người cho rằng trường hợp vợ chồng ly hôn mà có 02 con chung thì mặc nhiên mỗi người có quyền nuôi dưỡng một con. Cách hiểu như vậy là không chính xác. Để xác định ai là người có quyền trực tiếp nuôi con sau ly hôn trong trường hợp cả hai vợ chồng không thỏa thuận được về vấn đề này, Tòa án còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Trong đó, hai yếu tố về điều kiện nuôi dưỡng của cha mẹ và nguyện vọng của con là các yếu tố quan trọng nhất. 

Như vậy, trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con muốn được ở với ai là điều kiện quan trọng khi Toà án phán quyết quyền nuôi con. Trong vụ án trên, cả hai con của chị Thúy đều đã trên 07 tuổi nên có nguyện vọng muốn ở với mẹ nên Tòa án đã giao quyền nuôi con cho chị Thúy.

Như vậy: Con cái chính là tài sản quý báu nhất của mỗi người làm cha, làm mẹ. Vì vậy, các vụ án có tranh chấp về giành quyền nuôi con sau khi ly hôn đều diễn ra rất quyết liệt. Để có thể giành được quyền nuôi con, bạn cần hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này cũng như hiểu rõ cách Tòa án xem xét và phán quyết quyền nuôi con. Khi đó, bạn sẽ có cho mình những sự chuẩn bị kỹ càng để giành được lợi thế.

Bạn nên tìm đến Luật sư để được tư vấn. Đặc biệt là khi tương quan so sánh điều kiện kinh tế của bạn và chồng/vợ của bạn có sự tương đương nhau. Khi không nhận được sự tư vấn của Luật sư hoặc không có luật sư đồng hành trong quá trình giải quyết vụ việc, bạn có thể gặp nhiều bất lợi như:

  • Không đưa ra được các bằng chứng chứng minh mình đủ điều kiện nuôi con;
  • Không chuẩn bị đủ hồ sơ giấy tờ…

Có Luật sư đồng hành bên mình sẽ giúp bạn tự tin hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn trong quá trình giành quyền nuôi con.

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *