Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình 2015. Đây là hành vi pháp luật nghiêm cấm nhằm bảo vệ trẻ em trước những tổn hại về tâm lý và thể chất, gây bức xúc trong dư luận và cần được xử lý nghiêm khắc.
1 Khái quát về Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
1.1. Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là gì?
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hiện nay đang được quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015.
Đây là hành vi của người đủ 18 tuổi trở lên thực hiện việc giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, trái quy định của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không yêu cầu yếu tố cưỡng ép (có thể xảy ra dựa trên sự đồng thuận hoặc không có sự kháng cự từ nạn nhân), trong mọi trường hợp hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đều bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
- Bảo vệ trẻ em trong độ tuổi dễ bị tổn thương:
Việc quy định tội danh này nhằm bảo vệ trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi – nhóm đối tượng đang trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý, dễ bị lôi kéo hoặc thiếu khả năng tự bảo vệ trước những hành vi xâm phạm tình dục. Dù có sự đồng thuận từ phía nạn nhân thì người thực hiện hành vi giao cấu vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do pháp luật coi trẻ em ở độ tuổi này chưa đủ năng lực pháp lý để đưa ra quyết định liên quan đến quan hệ tình dục và vẫn cần được bảo vệ đặc biệt.
- Ngăn chặn lạm dụng tình dục trẻ em:
Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi giúp ngăn chặn các hành vi lạm dụng tình dục trẻ em, đặc biệt trong các trường hợp người phạm tội lợi dụng sự ngây thơ, thiếu hiểu biết hoặc lệ thuộc của nạn nhân. Quy định này đảm bảo rằng người lớn (từ 18 tuổi trở lên) phải chịu trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi quan hệ tình dục với trẻ em dưới 16 tuổi trong bất kể hoàn cảnh nào.
- Răn đe và giáo dục xã hội:
Việc quy định Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nhằm gửi gắm thông điệp mạnh mẽ rằng xã hội không chấp nhận các hành vi xâm phạm tình dục đối với trẻ em. Điều này góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo vệ trẻ em và thúc đẩy giáo dục giới tính, đạo đức để hạn chế các hành vi vi phạm.
- Đảm bảo công bằng và nhân đạo:
Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được phân biệt rõ với các tội nghiêm trọng hơn như Hiếp dâm hoặc cưỡng dâm, thể hiện sự cân nhắc của pháp luật trong việc phân loại mức độ nguy hiểm của hành vi. Điều này giúp đảm bảo nguyên tắc công bằng, tránh xử phạt quá nặng trong các trường hợp không có cưỡng ép nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hiện nay đang được quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
2.1. Khách thể:
Trẻ em là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương do sự phát triển về thể chất và tinh thần chưa đầy đủ. Vì vậy, pháp luật quốc tế và quốc gia luôn ưu tiên bảo vệ đặc biệt cho trẻ em, coi đây là mầm non tương lai của xã hội.
Theo Điều 1 Luật Trẻ em 2016 của Việt Nam, trẻ em được xác định là những người dưới 16 tuổi.
Quyền trẻ em bao gồm các quyền và tự do cơ bản, được đảm bảo cho mọi trẻ em không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch hay hoàn cảnh xã hội. Những quyền này là nền tảng để trẻ em phát triển toàn diện, được sống, học tập và lớn lên trong một môi trường an toàn, bình đẳng và tôn trọng.
Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi xâm phạm sự tiếp đến: Sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là: Hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP có hướng dẫn về 02 hành vi trong mặt khách quan của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau:
Giao cấu: Là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác: Là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
- Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể, dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Lưu ý: Nạn nhân của tội phạm này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó:
- Trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điểm a Khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;
- Trường hợp nan nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị cưỡng dâm bởi người mình đang lệ thuộc hay trong trạng thái quẫn bách, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Trường hợp người phạm tội xâm hại tình dục đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không thuộc các trường hợp nêu trên thì phạm Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điều 145 Bộ luật Hình sự 2015.
Khác biệt với tất cả các tội phạm xâm hại đến tình dục khác, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 không cần dấu hiệu “trái ý muốn của họ”. Theo đó, nếu người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi chấp nhận hay không chấp nhận để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ hình dục khác thì người thực hiện hành vi đó đều phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
- Giấy chứng sinh;
- Chứng minh nhân dân;
- Thẻ căn cước công dân;
- Sổ hộ khẩu;
- Hộ chiếu.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
- Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
- Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Xác định tội phạm hoàn thành:
- Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là hoàn thành khi có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
- Nếu chưa có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác thì không cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt:
- Người nào từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Và có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội phạm thực hiện hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lỗi cố ý trực tiếp.
Đồng thời, người phạm tội và nạn nhân có sự đồng tình thỏa thuận giao cấu với nhau (vì nếu không có sự đồng thuận thì sẽ cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015).
- Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến!
- Hoặc liên hệ Hotline: 058.7999997 để được sử dụng dịch vụ Luật sư hình sự!
3. Khung hình phạt của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung như sau:
Khung 1: Phạt phạt tù từ 01 năm đến 05 năm trong trường hợp người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (không có các tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 và hoản 3).
Khung 2: Phạt phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Có tính chất loạn luân;
- Làm nạn nhân có thai;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Các tình tiết định khung tặng nặnc của tội danh này được quy tại khoản 2 và khoản 3 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015.
4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015:
- Phạm tội 02 lần trở lên (điểm a khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này nhằm tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hành vi lặp lại thể hiện sự ngoan cố và thiếu hối cải của người phạm tội. Đối với hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, việc tội phạm được thực hiện nhiều lần phản ánh một mô hình hành vi nguy hiểm, có thể dẫn đến tổn hại lâu dài về tâm lý và thể chất cho các nạn nhân. Vì thế pháp luật coi đây là yếu tố tăng nặng để răn đe và ngăn chặn sự lặp lại hành vi, đồng thời bảo vệ trẻ em khỏi những kẻ phạm tội.
- Đối với 02 người trở lên (điểm b khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này nhấn mạnh mức độ lan rộng của hành vi phạm tội, ngăn chặn người phạm tội thực hiện hành vi gây hại cho nhiều nạn nhân, từ đó làm tăng tính nghiêm trọng xã hội. Hành vi này không chỉ xâm phạm quyền lợi cá nhân của từng trẻ em mà còn tạo ra một chuỗi tổn thương tâm lý, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển lành mạnh của thế hệ trẻ.
- Có tính chất loạn luân (điểm c khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Đây được xem là một trong những yếu tố tăng nặng nghiêm trọng nhất vì nó vi phạm không chỉ pháp luật mà còn các chuẩn mực đạo đức, văn hóa và quan hệ gia đình truyền thống. Loạn luân thường liên quan đến quan hệ huyết thống hoặc quan hệ gia đình gần gũi khiến nạn nhân phải chịu nhiều tổn thường. Hậu quả có thể dẫn đến rối loạn tâm thần, trầm cảm kéo dài hoặc thậm chí tự tử ở nạn nhân trẻ tuổi. Pháp luật coi đây là tình tiết định khung tăng nặng nhằm bảo vệ cấu trúc gia đình và ngăn chặn sự suy thoái đạo đức xã hội.
- Làm nạn nhân có thai (điểm d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này làm tăng nặng khung hình phạt do hậu quả trực tiếp và lâu dài đối với sức khỏe và cuộc sống của nạn nhân. Một đứa trẻ từ 13 đến dưới 16 tuổi mang thai không chỉ đối mặt với nguy cơ biến chứng sức khỏe (sinh non, thiếu máu…) mà còn bị ảnh hưởng đến học tập (thường dẫn đến bỏ học hoặc cô lập cộng đồng).
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% (điểm đ khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này phản ánh mức độ bạo lực kèm theo hành vi tình dục, làm tăng tính nghiêm trọng từ tổn hại tinh thần sang tổn thương thể chất cụ thể. Tỷ lệ tổn thương này thường được xác định qua giám định y khoa, bao gồm các vết thương nặng như: gãy xương, tổn thương nội tạng hoặc di chứng lâu dài khiến nạn nhân phải chịu đau đớn và chi phí điều trị cao.
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh (điểm e khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này nhấn mạnh sự lạm dụng vị thế quyền lực và lòng tin để thực hiện hành vi phạm tội. Những người có trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ em như cha mẹ, thầy cô, ông bà… đã lợi dụng mối quan hệ này để thực hiện hành vi trái luân thường đạo lý. Vì thế hành vi này cần được xử lý ở khung hình phạt tăng nặng hơn.
4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên (điểm a khoản 3 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Tình tiết này cho mức độ tổn hại cực kỳ nghiêm trọng, làm tăng khung hình phạt lên mức cao nhất là phạt tù từ 07 đến 15 năm tù. Tỷ lệ tổn thương cao này có thể bao gồm: Chấn thương não, mất chi hoặc suy tạng, không chỉ gây đau đớn tức thì mà còn ảnh hưởng suốt đời đến khả năng sinh hoạt và lao động của nạn nhân. Pháp luật áp dụng tình tiết này nhằm răn đe mạnh mẽ đối với các hành vi vi phạm, từ đó góp phần vào việc bảo vệ quyền con người.
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (điểm b khoản 3 Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015):
Đây được coi là yếu tố tăng nặng đặc biệt nguy hiểm vì nó không chỉ xâm hại tình dục mà còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe cộng đồng. Người phạm tội dù biết rõ tình trạng sức khỏe của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi, coi thường sức khỏe và tính mạng củ người khác. Vì vậy cần được xử lý ở khung hình phạt tăng nặng.
5. Phân biệt với Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
Tiêu chí |
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015) |
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khái niệm |
Dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang bị lệ thuộc hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. |
Người đủ 18 tuổi trở lên giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, không thuộc trường hợp Điều 142 và Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015. |
Yếu tố cưỡng ép |
Có yếu tố cưỡng ép (dùng thủ đoạn khiến nạn nhân miễn cưỡng). |
Không yêu cầu yếu tố cưỡng ép, hành vi dựa trên sự đồng thuận hoặc không kháng cự. |
Đối tượng phạm tội |
Người có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân (ví dụ: người chăm sóc, giáo viên) hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân. |
Người đủ 18 tuổi trở lên và không giới hạn quan hệ lệ thuộc hay tình trạng quẫn bách của nạn nhân. |
Mức phạt cơ bản |
Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (khoản 1 Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015). |
Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm (khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015). |
Tình tiết tăng nặng theo khoản 2 |
Mức phạt: 07 năm đến 15 năm với các tình tiết:
|
Mức phạt: 03 năm đến 10 năm với các tình tiết:
|
Tình tiết tăng nặng theo khoản |
Mức phạt: 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân với các tình tiết:
|
Mức phạt: 07 năm đến 15 năm với các tình tiết:
|
Hình phạt bổ sung |
Cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mức độ nguy hiểm |
Cao hơn do có yếu tố cưỡng ép, lợi dụng sự lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách, gây tổn hại nghiêm trọng đến tâm lý và quyền tự do của nạn nhân. |
Thấp hơn do không có yếu tố cưỡng ép nhưng vẫn vi phạm đạo đức và pháp luật vì nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi. |
6. Bản án điển hình của Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
- Tên bản án:
Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 17/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đắk , tỉnh Kon Tum.
- Nội dung vụ án:
Từ khoảng tháng 12/2017 đến ngày 18/02/2019, Đoàn Thanh L và Nguyễn Thị Trà M thực hiện hành vi giao cấu với nhau nhiều lần tại nhà L và vườn cây cà phê gần nhà L thuộc tổ dân phố 6, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum dẫn đến M có thai rồi sinh con và đặt tên con là Đoàn Quốc K.
Tại thời điểm thực hiện hành vi giao cấu lần đầu, do L và M không nhớ rõ ngày cụ thể nên tính đến ngày 31/12/2017 thì M mới 14 tuổi 10 tháng 13 ngày. Khi thực hiện hành vi giao cấu có sự đồng thuận của M.
Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận, hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi của bị cáo Đoàn Thanh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a và điểm d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Vì vậy, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
+ Bị cáo Đoàn Thanh L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
+ Xử phạt Bị cáo Đoàn Thanh L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.