Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 151

Thực tiễn cho thấy tình trạng mua bán trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 16 tuổi, vẫn diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân và xã hội. Nhằm trừng trị và phòng ngừa loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định riêng tại Điều 151 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi với khung hinh phạt nghiêm khắc nhất.

1. Khái quát chung về Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

1.1. Tội mua bán người dưới 16 tuổi là gì?

Tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp trẻ em dưới 16 tuổi để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác hoặc nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể, hoặc những mục đích vô nhân đạo khác.

Điểm đặc thù của tội danh này là đối tượng tác động là trẻ em dưới 16 tuổi, nhóm đối tượng đặc biệt yếu thế trong xã hội. Khác với Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 về tội mua bán người (áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi trở lên), Điều 151 không công nhận ngoại lệ “vì mục đích nhân đạo” (trừ trường hợp cho/nhận con nuôi hợp pháp). Điều đó có nghĩa là mọi hành vi mua bán liên quan đến trẻ em dưới 16 tuổi đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

1.2. Ý nghĩa của chế định Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

a. Nhằm bảo vệ quyền trẻ em, nhóm yếu thế đặc biệt:

Theo Điều 1 Luật Trẻ em 2016: Trẻ em là người dưới 16 tuổi.

Trẻ em dưới 16 tuổi chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần và không có khả năng tự vệ. Do đó, pháp luật hình sự dành sự bảo vệ nghiêm ngặt hơn so với người trưởng thành. Quy định Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 khẳng định cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.

b. Thực hiện chính sách hình sự nhân đạo và phù hợp với chuẩn mực quốc tế:

Việt Nam là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC). Khoản 2 Điều 8 Công ước quy định: Khi trẻ em bị tước đoạt một cách bất hợp pháp một số hoặc tất cả những yếu tố thuộc về bản sắc của các em, thì các Quốc gia thành viên phải cung cấp sự trợ giúp và bảo vệ thích hợp, nhằm mục đích nhanh chóng khôi phục lại bản sắc cho các em đó.

Việt Nam đã thể hiện nỗ lực rất lớn khi đã nội luật hóa hầu hết các quyền trẻ em được quy định trong Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 vào pháp luật quốc gia (trong đó có Luật Trẻ em và các văn bản khác có liên quan, bao gồm cả Bộ luật hình sự 2015).

Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong những sự cụ thể hóa cam kết quốc tế, thể hiện tinh thần nhân đạo và coi trọng quyền con người trong chính sách hình sự Việt Nam.

c. Ngăn ngừa tội phạm xuyên quốc gia:

Hành vi mua bán trẻ em thường gắn với hoạt động tội phạm có tổ chức, xuyên biên giới, liên quan đến bóc lột tình dục, lao động cưỡng bức hoặc lấy nội tạng. Quy định chế tài nghiêm khắc tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm nguy hiểm này, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự xã hội.

d. Khẳng định nguyên tắc “mọi hành vi mua bán trẻ em đều là tội phạm”:

Khác với tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015), pháp luật không cho phép bất kỳ lý do nào được coi là nhân đạo đối với hành vi mua bán trẻ em dưới 16 tuổi. Đây là sự khẳng định dứt khoát của Nhà nước, quyền trẻ em phải được bảo vệ tuyệt đối và không được sử dụng như đối tượng trao đổi.

1.3. Cơ sở pháp lý của Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

Tội mua bán người dưới 16 tuổi hiện nay đang được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;

b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

b) Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội;

c) Đối với từ 02 người đến 05 người;

d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;

đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

e) Phạm tội 02 lần trở lên;

g) Vì động cơ đê hèn;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

e) Đối với 06 người trở lên;

g) Tái phạm nguy hiểm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Cấu thành tội phạm của Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

2.1. Khách thể:

Khách thể của tội mua bán người dưới 16 tuổi là quyền sống, quyền tự do và quyền được bảo vệ của trẻ em, đặc biệt là quyền không bị buôn bán, khai thác, lợi dụng dưới bất kỳ hình thức nào.

Tội này xâm phạm nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em, đồng thời vi phạm nghiêm trọng quyền con người và quyền trẻ em được bảo vệ theo các quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam.

2.2. Mặt khách quan:

Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những hành vi sau đây:

  • Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
  • Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
Xem thêm:  Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi Điều 152 Bộ luật hình sự

Để làm rõ thêm cho các hành vi mua bán người được quy định trong Điều 151 Bộ luật Hình sự, Điều 2 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP có đưa ra một số giải thích chi tiết như sau:

Mua bán người dưới 16 tuổi là thực hiện một trong các hành vi sau đây:

  • Chuyển giao người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
  • Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
  • Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi chuyển giao người theo hướng dẫn tại điểm a và điểm c khoản này.

Trong đó:

+ Mục đích nhân đạo: Là mục đích tốt đẹp, vì lợi ích của người dưới 16 tuổi. Hầu hết là trường hợp cho nhận con nuôi theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi. Những trường hợp tiếp nhận hoặc chuyển giao người dưới 16 tuổi vì mục đích nhân đạo sẽ không phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi.

+ Thủ đoạn khác là các thủ đoạn như: Bắt cóc; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; đầu độc nạn nhân; lợi dụng việc môi giới hôn nhân, môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng tình thế bị lệ thuộc; lợi dụng tình thế dễ bị tổn thương hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân (ví dụ: lợi dụng tình trạng nạn nhân có người thân bị bệnh hiểm nghèo cần tiền chữa trị ngay, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng) để thực hiện một trong các hành vi mua bán người đã nêu trên (khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP).

Về mục đích, hành vi mua bán người dưới 16 tuổi hướng tới những mục đích sau:

  • Để bóc lột tình dục là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nạn nhân nhằm chuyển giao cho người khác để thực hiện các hoạt động bóc lột tình dục (như tổ chức cho nạn nhân bán dâm, đưa nạn nhân đến các cơ sở chứa mại dâm để bán dâm, sử dụng nạn nhân để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm, làm nô lệ tình dục…) hoặc tiếp nhận nạn nhân để phục vụ nhu cầu tình dục của chính mình;
  • Mục đích kiếm lời về kinh tế;
  • Để cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc nạn nhân lao động trái ý muốn của họ.
  • Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
  • Và những mục đích vô nhân đạo khác như: Sử dụng nạn nhân để làm thí nghiệm, buộc nạn nhân phải đi ăn xin hoặc sử dụng nạn nhân vào các mục đích tàn ác khác…

Hậu quả của hành vi mua bán người dưới 16 tuổi là người dưới 16 tuổi bị hại đã bị đem ra mua, bán. Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi tìm người, liên hệ nơi bán, thỏa thuận giá cả nhưng chưa thực hiện việc mua bán thì phạm tội chưa đạt, vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự (theo Điều 102 Bộ luật Hình sự 2015).

Tội phạm này hoàn thành khi hậu quả nạn nhân bị mua bán xảy ra, nếu hậu quả đó chưa xảy ra người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt.

Dấu hiệu độ tuổi của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này. Nếu nạn nhân dưới 16 tuổi thì người phạm tội mới cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015, nếu nạn nhân là người từ đủ 16 tuổi thì người phạm tội sẽ cấu thành tội phạm mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015

Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi sẽ căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

  • Giấy chứng sinh;
  • Giấy khai sinh;
  • Chứng minh nhân dân;
  • Thẻ căn cước công dân;
  • Sổ hộ khẩu;
  • Hộ chiếu.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:

  • Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh;
  • Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh;
  • Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh;
  • Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh;
  • Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

2.3. Mặt chủ quan:

Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Họ ý thức rõ hành vi của mình là mua bán, chuyển giao hoặc nhận trẻ em để nhằm mục đích trục lợi, bóc lột nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Mục đích của hành vi này là để kiếm lợi bất chính qua việc buôn bán trẻ em, dẫn dắt trẻ em vào các hoạt động lao động cưỡng bức, mại dâm, cưỡng bức hôn nhân hoặc các hình thức bóc lột khác.

2.4. Chủ thể:

Chủ thể của tội mua bán người là bất kì người nào từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ (Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015). Cụ thể:

  • Chủ thể của tội phạm có thể là bất kì ai, là phụ nữ hoặc nam giới, là công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch;
  • Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội mua bán người là người từ đủ 14 tuổi trở;
  • Là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến!
  • Hoặc liên hệ Hotline: 058.7999997 để được sử dụng dịch vụ Luật sư hình sự!

3. Khung hình phạt của Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

Tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định với các khung hình phạt nghiêm khắc:

Khung 1: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm cho hành vi mua bán trẻ em dưới 16 tuổi. 

Khung 2: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

  • Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
  • Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội;
  • Đối với từ 02 người đến 05 người;
  • Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
  • Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  • Phạm tội 02 lần trở lên; 
  • Vì động cơ đê hèn;
  • Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.
Xem thêm:  Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi Điều 153 Bộ luật hình sự

Khung 3: Phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

  • Có tổ chức; 
  • Có tính chất chuyên nghiệp;
  • Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; 
  • Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
  • Đối với 06 người trở lên;
  • Tái phạm nguy hiểm.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, và có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.

4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi với nhiều khung hình phạt, trong đó khoản 2 và khoản 3 nêu rõ các tình tiết định khung tăng nặng. Đây là những yếu tố làm cho hành vi phạm tội trở nên đặc biệt nguy hiểm, từ đó kéo theo chế tài nghiêm khắc hơn. Cụ thể:

4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015:

  • Lợi dụng chức vụ, quyền hạn (điểm a khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Người phạm tội trong trường hợp này là những cá nhân được Nhà nước, tổ chức hoặc cộng đồng trao quyền hạn nhất định như cán bộ, công chức, viên chức, người làm công tác bảo trợ xã hội, giáo viên, y bác sĩ…

Khi lợi dụng vị trí, quyền lực hoặc công việc của mình để thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi, họ không chỉ xâm hại đến quyền sống, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em mà còn làm mất uy tín, niềm tin của xã hội đối với bộ máy công quyền. Do đó, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng để xử lý nghiêm khắc hơn.

  • Lợi dụng hoạt động cho, nhận con nuôi để phạm tội (điểm b khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Hoạt động cho, nhận con nuôi vốn mang ý nghĩa nhân đạo nhằm bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ em. Tuy nhiên, một số người đã lợi dụng thủ tục này để thực hiện hành vi mua bán trẻ em, biến một hoạt động nhân văn thành phương tiện trục lợi cá nhân.

Tình tiết này bị coi là đặc biệt nguy hiểm bởi nó không chỉ xâm hại đến trẻ em mà còn làm biến dạng chính sách pháp luật về nuôi con nuôi, gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước.

  • Đối với từ 02 người đến 05 người (điểm c khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Nếu hành vi phạm tội chỉ nhằm vào một người dưới 16 tuổi đã bị coi là nguy hiểm thì việc xâm hại đồng thời từ 02 đến 05 trẻ em cho thấy tính chất, quy mô phạm tội lớn hơn, hậu quả xã hội nghiêm trọng hơn.

Trẻ em là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, do đó việc nhiều trẻ em bị mua bán cùng lúc sẽ gây ra sự hoang mang, bức xúc trong dư luận và làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội.

  • Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng (điểm d khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Đây là trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng bởi người phạm tội đã lợi dụng chính trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức, pháp lý của mình đối với trẻ em.

Trong trường hợp cha mẹ, người giám hộ, người nuôi dưỡng hoặc bất kỳ ai được giao trách nhiệm bảo vệ lại trở thành người bán trẻ em, hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn phản bội luân thường đạo lý, gây tổn thương sâu sắc cho nạn nhân và xã hội.

  • Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới Việt Nam (điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Đây là trường hợp người phạm tội đã hoặc đang đưa nạn nhân ra khỏi biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng được coi là đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nếu đã thực hiện thủ tục xuất cảnh đối với nạn nhân.

  • Phạm tội 02 lần trở lên (điểm e khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Vì động cơ đê hèn (điểm g khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

“Động cơ đê hèn” được hiểu là việc phạm tội nhằm thỏa mãn lợi ích thấp kém, ích kỷ, vô nhân đạo như trả thù, trục lợi bằng mọi giá, thỏa mãn nhu cầu tình dục bệnh hoạn…

Khi phạm tội vì những động cơ này, người phạm tội thể hiện thái độ coi thường nhân phẩm, tính mạng con người ở mức độ đặc biệt, nên bị xử lý nghiêm khắc.

  • Gây thương tích, tổn hại sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% (điểm h khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Hành vi mua bán không chỉ dừng lại ở việc xâm phạm quyền tự do thân thể của trẻ em mà còn dẫn đến hậu quả tổn hại trực tiếp về sức khỏe, tinh thần. Trẻ em bị mua bán thường phải chịu sự hành hạ, bóc lột, khiến tỷ lệ tổn thương cơ thể và rối loạn tâm thần tăng cao. Đây là yếu tố làm tăng tính chất nguy hiểm, nên pháp luật quy định là tình tiết định khung tăng nặng.

4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015:

  • Có tổ chức (điểm a khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ và phân công, sắp đặt vai trò của những người cùng thực hiện tội phạm.

Theo đó phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa nhiều người, có sự phân công vai trò, kế hoạch cụ thể. Đây là hình thức phạm tội nguy hiểm nhất, thể hiện tính chất chuyên nghiệp, gây khó khăn cho công tác điều tra và ngăn chặn. 

Vì vậy, mức hình phạt áp dụng sẽ rất nghiêm khắc.

  • Có tính chất chuyên nghiệp (điểm b khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi làm nguồn sống chính.

  • Gây thương tích hoặc rối loạn tâm thần với tỷ lệ 61% trở lên (điểm c khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Đây là tình tiết phản ánh mức độ tổn hại sức khỏe đặc biệt nghiêm trọng của hành vi. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần, do đó, việc gây thương tích nặng, thậm chí mất khả năng lao động, để lại di chứng lâu dài làm tăng tính chất đặc biệt nguy hiểm của tội phạm.

  • Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm d khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Khoản 6 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP: Là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó đã lấy đi bộ phận cơ thể của nạn nhân.

Xem thêm:  Tội mua bán người theo quy định Điều 150 Bộ luật hình sự

Theo đó hành vi này thể hiện sự tàn bạo, vô nhân tính, biến trẻ em thành đối tượng bị khai thác cơ thể. Việc lấy bộ phận cơ thể không chỉ tước đi một phần sức khỏe mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của nạn nhân. Đây là hành vi bị xã hội và pháp luật lên án mạnh mẽ, do đó bị áp dụng mức hình phạt cao nhất.

  • Làm nạn nhân chết hoặc tự sát (điểm đ khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Nếu hậu quả của hành vi mua bán trẻ em là nạn nhân chết hoặc vì đau đớn, tuyệt vọng mà tự sát thì tính chất đặc biệt nghiêm trọng là không thể phủ nhận. Đây là hậu quả cuối cùng, xâm hại trực tiếp đến quyền sống – quyền tối thượng của con người nên pháp luật quy định tình tiết này trong khung hình phạt cao nhất.

  • Đối với 06 người trở lên (điểm e khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Số lượng nạn nhân càng nhiều thì phạm vi tác động xã hội càng lớn. Việc mua bán từ 06 trẻ em trở lên không chỉ gây hậu quả cho nhiều gia đình mà còn gây bất ổn nghiêm trọng cho xã hội từ đó làm gia tăng sự phẫn nộ của dư luận. Vì vậy, hành vi này được coi là đặc biệt nguy hiểm nên sẽ bị xử lý ở khung hình phạt cao nhất.

  • Tái phạm nguy hiểm (điểm g khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015):

Theo khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 thì những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; 

+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hin hành vi phạm tội do cố ý.

5. Phân biệt Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội mua bán người:

Tiêu chí

Tội mua bán người

Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015

Tội mua bán người dưới 16 tuổi

Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015

Khách thể bị xâm hại Quyền tự do thân thể, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung (từ đủ 16 tuổi trở lên). Quyền được bảo vệ đặc biệt của người dưới 16 tuổi, một nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương.
Chủ thể của tội phạm Người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên; và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên trong trường hợp phạm tội thông thường; và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (tương tự Tội mua bán người Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015).
Hành vi khách quan Chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm: nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất; bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể, mục đích vô nhân đạo khác. Hành vi tương tự Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 nhưng áp dụng riêng cho người dưới 16 tuổi. Đặc biệt, pháp luật không thừa nhận trường hợp “chuyển giao, tiếp nhận vì mục đích nhân đạo” (ngoại trừ cho/nhận con nuôi hợp pháp theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010).
Khung hình phạt cơ bản Khoản 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khoản 1: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm (mức khởi điểm cao hơn thể hiện chính sách bảo vệ trẻ em nghiêm ngặt hơn so với Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015).
Khung hình phạt tăng nặng

Khung 2: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.

Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Khung 2: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Khung 3: Phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hình phạt bổ sung Có thể phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng, quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc tịch thu một phần/tài sản (Điều 150 khoản 4). Có thể phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng, quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc tịch thu một phần/tài sản (Điều 151 khoản 4).
Mức độ nguy hiểm cho xã hội Nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến trẻ em – đối tượng được ưu tiên bảo vệ theo Hiến pháp và Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Do đó, khung hình phạt cao hơn và chính sách xử lý nghiêm khắc hơn.

6. Bản án điển hình của Tội mua bán người dưới 16 tuổi:

  • Tên bản án:

Bản án số 34/2023/HS-PT ngày 15/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai.

  • Nội dung bản án:

Bị cáo Chảo Láo L và chị Lý L M chung sống với nhau như vợ chồng từ khoảng tháng 10/2018. Trong thời gian chung sống chưa có con chung và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Khoảng tháng 01/2019, chị M bỏ nhà đi đến huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu làm thuê thì gặp anh Lê Ngọc Trung. Sau đó cả hai đi làm thuê tại tỉnh H4 Yên và sống với nhau như vợ, chồng dẫn đến chị M có thai.

Đến khoảng cuối năm 2019, chị M quay về nhà bố, mẹ đẻ để làm thẻ bảo hiểm y tế phục vụ việc sinh con. Bị cáo L phát hiện nên đến nhà bố mẹ đẻ chị M yêu cầu chị M quay về cùng sống chung với bị cáo L. Nếu không đồng ý thì chị M phải trả cho bị cáo L số tiền là 100.000.000 đồng, là số tiền mà bị cáo đã chi phí cưới chị M.

Do không có tiền trả cho bị cáo L, nên chị M đồng ý quay về sống với bị cáo. Ngày 28/02/2020, Lý L M sinh được một người con trai tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Lào Cai và tự đặt tên con là Chảo Vạn Hòa. Sau khi biết chị M sinh con trai, Chảo Láo L gặp và nói với chị M “Trước đây anh có quen và bán lợn cho một người đàn ông ở thành phố Lào Cai có hai đứa con bị tật nguyền, anh sẽ bán con của em cho nó”.

Khi bị cáo L nói vậy, chị M không đồng ý và nói “con em, em tự đẻ, tự nuôi được, không được bán con em”, nH4 bị cáo vẫn thực hiện hành vi chuyển giao cháu bé con của chị M (lúc đó mang tên Chảo Vạn Hòa, sau này được đổi tên thành Trương Gia Huy) cho vợ chồng anh Trương Văn Thắng, chị Đặng Thị Xuân để nhận số tiền 35.000.000 đồng, không vì mục đích nhân đạo.

Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi ” theo điểm a khoản 1 điều 151 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

  • Quyết định của Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Chảo Láo L phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Chảo Láo L 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 14/4/2022.

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *