Tội quảng cáo gian dối theo Điều 197 Bộ luật hình sự 2015

Quảng cáo là công cụ quan trọng để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng. Hành vi quảng cáo được thực hiện bằng cách đưa thông tin sai sự thật, không chỉ xâm hại đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng mà còn phá vỡ trật tự quản lý kinh tế. Hiện nay Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định Tội quảng cáo gian dối tại Điều 197 với khung hình phạt nghiêm khắc.

1. Khái quát chung về Tội quảng cáo gian dối:

1.1. Tội quảng cáo gian dối là gì?

Trong bối cảnh cạnh tranh kinh doanh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì quảng cáo đã và đang trở thành công cụ quan trọng để tiếp cận và thuyết phục người tiêu dùng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển này, tình trạng quảng cáo gian dối cũng xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt trong các lĩnh vực thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh, dịch vụ giáo dục, bất động sản… Các hành vi phổ biến là: Đưa thông tin sai sự thật, phóng đại công dụng sản phẩm, che giấu rủi ro hoặc tạo ra sự so sánh không đúng sự thật nhằm lừa dối người tiêu dùng. 

Hệ quả của hành vi này là người tiêu dùng bị thiệt hại về sức khỏe, tài sản; các doanh nghiệp chân chính bị cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù đã có sự can thiệp của cơ quan quản lý thông qua xử phạt hành chính và kiểm soát nội dung quảng cáo nhưng thực tế cho thấy tình trạng quảng cáo gian dối vẫn tồn tại dai dẳng và đòi hỏi phải được xử lý bằng chế tài hình sự với khung hình phạt nghiêm khắc nhất.

Có thể đưa ra khái niệm về Tội quảng cáo gian dối như sau:

“Tội quảng cáo gian dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai lệch, không đúng sự thật hoặc gây hiểu lầm nghiêm trọng trong hoạt động quảng cáo, nhằm mục đích thu hút khách hàng, trục lợi bất chính, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, doanh nghiệp khác hoặc xã hội. Đây là tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, xâm phạm đến trật tự quản lý trong hoạt động thương mại, cạnh tranh và quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.”

1.2. Ý nghĩa của Tội quảng cáo gian dối trong pháp luật hình sự:

Việc quy định và xử lý hình sự đối với tội quảng cáo gian dối mang nhiều ý nghĩa quan trọng:

  • Thứ nhất, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Ngăn ngừa việc khách hàng bị lừa dối và bảo đảm quyền được cung cấp thông tin chính xác, minh bạch.
  • Thứ hai, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh: Tạo môi trường kinh doanh công bằng và khuyến khích doanh nghiệp chú trọng đến chất lượng sản phẩm – dịch vụ thay vì dựa vào thủ đoạn gian dối.
  • Thứ ba, ổn định thị trường và trật tự kinh tế: Hạn chế tình trạng thông tin sai lệch gây rối loạn thị trường và góp phần xây dựng niềm tin của người dân vào hoạt động thương mại.
  • Thứ tư, khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật: Thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích cộng đồng và trật tự quản lý kinh tế, đồng thời phù hợp với xu hướng quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng.

1.3. Cơ sở pháp lý của Tội quảng cáo gian dối:

Tội quảng cáo gian dối hiện nay được quy định tại Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

“1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Cấu thành tội phạm của Tội quảng cáo gian dối:

2.1. Khách thể:

Tội quảng cáo gian dối xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là các quy định của Nhà nước về quảng cáo hàng hoá.

Đối tượng tác động của tội phạm này là hình thức, nội dung tin tức mà người phạm tội đã quảng cáo.

Xem thêm:  Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Điều 226 BLHS

2.2. Mặt khách quan:

Theo khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 (sửa đổi năm 2025): Quảng cáo là việc sử dụng người, phương tiện nhằm giới thiệu đến người tiếp nhận quảng cáo về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.

Theo khoản 1 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 thì hành vi khách quan của Tội quảng cáo gian dối là: Hành vi quảng cáo sai sự thật về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là hành vi duy nhất của tội danh này.

Hành vi này được thể hiện qua nhiều thu đoạn khác nhau, điển hình là việc sử dụng nội dung quảng cáo chứa đựng thông tin sai lệch về chất lượng, nguồn gốc, công dụng, xuất xứ, giá cả hoặc các đặc điểm khác của sản phẩm, dịch vụ nhằm mục đích gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng.

Có thể hiểu: “Quảng cáo gian dối” là quảng cáo không đúng với sự thật vốn có của hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra còn có thể bao gồm hành vi nói xấu hàng hóa, dịch vụ của người/doanh nghiệp khác, so sánh với chất lượng hàng hóa, dịch vụ của mình để “dìm” hàng hóa và dịch vụ của người khác xuống.

Hành vi quảng cáo gian dối là hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quảng cáo. Cụ thể:

  • Khoản 9 Điều 8 Luật Quảng cáo 2012 quy định một trong những hành vi bị cấm là: Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố. 
  • Khoản 1 Điều 19 Luật Quảng cáo 2012 (sửa đổi năm 2025) quy định: Nội dung quảng cáo phải trung thực, chính xác, rõ ràng; không gây hiểu nhầm về tính năng, chất lượng, công dụng, tác dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Về hậu quả: Hậu quả do hành vi này gây ra là thiệt hại về kinh tế cho người tiêu dùng hoặc xã hội.

Về hậu quả: Tội quảng cáo gian dối không yêu cầu về hậu quả, do đó khi người phạm tội đã thực hiện hành vi cung cấp thông tin sai trong quảng cáo dù chưa chắc dẫn đến thiệt hại nhưng đã cấu thành tội phạm. Đây là điểm mới của Tội quảng cáo gian dối của Bộ luật Hình sự 2015 so với Bộ luật Hình sự 1999, bởi Tội quảng cáo gian dối theo Điều 168 Bộ luật Hình sự 1999 có yêu cầu bắt buộc về dấu hiệu hậu quả. Tức là hành vi phải gây ra hậu quả nghiêm trọng thì mới cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chưa nghiêm trọng thì cần phải xem xét đến yếu tố nhân thân để xác định có tội phạm hay không.

2.3. Chủ thể:

Chủ thể của Tội quảng cáo gian dối phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự.

Người phạm tội có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan:

Tội quảng cáo gian dối được thực hiện với lỗi cố ý. Tức là nhận thức rõ hành vi quảng cáo của mình là gian dối, trái phép, trái với quy định của pháp luật về quảng cáo, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội quảng cáo gian dối. Nhưng người phạm Tội quảng cáo gian dối thường vì động cơ vụ lợi muốn bán được nhiều hàng hoá nên nói không đúng nhưng thông tin về chất lượng sản phẩm gây nhầm lẫn về công dụng của loại hàng hóa đó.

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến!
  • Hoặc liên hệ Hotline: 058.7999997 để được sử dụng dịch vụ Luật sư hình sự!

3. Khung hình phạt của Tội quảng cáo gian dối:

Tội quảng cáo gian dối theo Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt như sau:

  • Hình phạt chính: Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
  • Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Xem thêm:  Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207)

4. So sánh Tội quảng cáo gian dối và Tội lừa dối khách hàng:

4.1. Điểm giống nhau:

Cả 02 tội danh này có điểm chung như sau:

  • Về khách thể: Đều là những hành vi lừa dối khách hàng xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng;
  • Về mặt chủ quan: Đều thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là gian dối, trái phép, trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Với mục đích của tội phạm là nhằm thu lợi bất chính.

4.2. Điểm khác biệt:

Tiêu chí

Tội lừa dối khách hàng

(Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015)

 

Tội quảng cáo gian dối

(Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015)

 

Chủ thể Chủ thể của tội lừa dối khách hàng là người bán hàng hóa trong các giao dịch mua bán, có năng lực trách nhiệm hình sự và từ 16 tuổi trở lên. Chủ thể của tội quảng cáo gian dối thì không bị giới hạn, người phạm tội có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, họ có thể là chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng cũng có thể là những người được thuê để thực hiện việc quảng cáo gian dối.
Hành vi khách quan Lừa dối khách hàng là hành vi gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng khi thực hiện hợp đồng mua, bán. Quảng cáo gian dối là quảng cáo không đúng với tên gọi, chất lượng, giá trị và giá trị sử dụng thật của hàng hóa gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả Dấu hiệu về hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lừa dối khách hàng và đây là tội phạm có cấu thành vật chất. Tội quảng cáo gian dối không yêu cầu về hậu quả do đây là tội phạm có cấu thành hình thức.
Đối tượng tác động Tội lừa dối khách hàng tác động đến tiền, hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ được đưa vào giao dịch mua bán, trao đổi. Tội quảng cáo gian dối tác động đến hình thức, nội dung tin tức mà người phạm tội đã quảng cáo.
Thời điểm xảy ra hành vi Hành vi lừa dối khách hàng thường xảy ra trong hoặc sau khi phát sinh giao dịch giữa các bên. Hành vi quảng cáo gian dối thường xảy ra trước khi các bên thực hiện giao dịch.
Hình phạt

Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Khung 2: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Hình phạt chính: Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4.3. Mối quan hệ giữa hành vi quảng cáo gian dối và lừa dối khách hàng:

Cả 02 hành vi đều mang bản chất gian dối, sử dụng thông tin sai lệch để tác động đến nhận thức và quyết định của người tiêu dùng. Đối tượng bị xâm hại trực tiếp là người tiêu dùng – cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ và mục đích đều nhằm thu lợi bất chính. Vì vậy, giữa hành vi quảng cáo gian dối và hành vi lừa dối khách hàng có mối quan hệ nhất định với nhau.

Xem thêm:  Tội buôn lậu theo quy định tại Điều 88 Bộ luật hình sự 2015

Quảng cáo gian dối có thể trở thành tiền đề cho hành vi lừa dối khách hàng, bởi đây là một trong những thủ đoạn phổ biến để đạt được mục đích lừa đảo. Một quảng cáo sai sự thật nếu dẫn đến hậu quả thiệt hại cụ thể thì có thể bị xử lý hình sự về tội lừa dối khách hàng. Tuy nhiên, quảng cáo gian dối chỉ là một trong nhiều cách thức của hành vi lừa dối khách hàng, bởi không phải mọi hành vi lừa dối đều xuất phát từ quảng cáo.

Trên thực tiễn, khi xử lý Tội lừa dối khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng thường không xem xét thêm trách nhiệm hình sự về Tội quảng cáo gian dối. Điều này thể hiện qua khảo sát các bản án được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao. Thực tiễn cho thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội quảng cáo gian dối hầu như không xảy ra.

Có quan điểm cho rằng, về bản chất thì hành vi quảng cáo gian dối và lừa dối khách hàng chỉ là một. “Quảng cáo gian dối” chính là một dạng thủ đoạn của hành vi lừa dối khách hàng nên không cần thiết phải quy định thành tội danh riêng. Quan điểm này chưa hoàn toàn thuyết phục vì xét về lý luận, tội quảng cáo gian dối là tội có cấu thành hình thức, chỉ cần hành vi có đủ dấu hiệu là bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trong khi tội lừa dối khách hàng là tội có cấu thành vật chất, đòi hỏi phải có hậu quả cụ thể và lượng hóa được. 

Hơn nữa, trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, các mô hình kinh doanh mới qua sàn thương mại điện tử, ứng dụng và mạng xã hội ngày càng phổ biến, việc mua bán không còn trực tiếp mà chủ yếu diễn ra trực tuyến. Điều này khiến công tác quản lý, giám sát trở nên khó khăn, tạo kẽ hở để các chủ thể lợi dụng thực hiện hành vi gian dối với người tiêu dùng. Đây đang là thách thức lớn đối với công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

5. Ví dụ về hành vi quảng cáo gian dối (Kẹo rau củ Kera):

Kẹo Kera (Super Greens Gummies) do Công ty CP Tập đoàn Chị Em Rọt giới thiệu là sản phẩm làm từ 28,13% bột rau củ tự nhiên được quảng bá là “tốt cho tiêu hóa” và “tương đương một đĩa rau luộc”.

Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy sản phẩm chỉ chứa 0,61% đến 0,75% bột rau, phần lớn là chất phụ gia như sorbitol 70%… gây hiệu ứng nhuận tràng nhưng không được công bố rõ ràng cho người tiêu dùng.

Quang Linh Vlogs, Hằng Du Mục cùng hoa hậu Thùy Tiên đã quảng bá sản phẩm này qua mạng xã hội, livestream và các nền tảng. Sau đó đã thu về khoảng 17,5 tỷ đồng từ việc bán hơn 135.000 hộp cho trên 30.000 khách hàng, trong khi giá sản xuất chỉ khoảng 32.452 đồng/hộp.

Nhìn chung, người có hành vi quảng cáo gian dối có thể bị xem xét trách nhiệm theo Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015. Điều khoản này được áp dụng khi một cá nhân có hành vi: Quảng cáo sai lệch về hàng hóa, dịch vụ trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức quảng cáo khác. Trong đó, hành vi quảng cáo gian dối là hành vi cung cấp các thông tin sai lệch không đúng với chất lượng, hình thức… vốn có của hàng hoá dịch vụ nhằm mục đích bán được hàng hoá, cung cấp được dịch vụ cho người tiêu dùng. Tất cả thông tin quảng cáo về hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ phải đảm bảo trung thực, chính xác rõ ràng, không gây thiệt hại cho người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.

Vụ việc phản ánh rõ ràng thực trạng quảng cáo gian dối trên mạng xã hội, đặc biệt khi được thực hiện bởi những KOLs có tên tuổi. Hành vi này đã vi phạm nghiêm trọng niềm tin của người tiêu dùng, gây hậu quả tài chính và sức khỏe. Đồng thời vụ việc trên cũng là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ về việc tăng cường kiểm soát nội dung quảng cáo trực tuyến và xử lý nghiêm khắc các hành vi gian dối thương mại.

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *