Đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ?

Quyền tự do ly hôn là một trong những quyền nhân thân cơ bản được pháp luật Việt Nam công nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, việc thực thi quyền này không phải là tuyệt đối mà được đặt trong sự cân bằng với các nguyên tắc cơ bản khác của chế độ hôn nhân và gia đình. Vậy, có được đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu hoặc nuôi con nhỏ không?

1. Quy định về đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ:

Trong đời sống hôn nhân, không ít trường hợp mâu thuẫn gia đình xảy ra ngay cả khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ. Đây là giai đoạn nhạy cảm vì vậy người phụ nữ cần được quan tâm, chăm sóc về tinh thần và vật chất; đồng thời trẻ sơ sinh cũng cần môi trường ổn định để phát triển. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều cặp vợ chồng vẫn rơi vào bế tắc trầm trọng dẫn đến ý định ly hôn kể cả khi hôn nhân đang trong giai đoạn đặc biệt này.

Vấn đề “đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ” nhận được nhiều sự quan tâm lớn bởi liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân, quyền trẻ em, cũng như thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Việt Nam.

1.1. Chồng có được đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ không?

Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trong 03 giai đoạn đặc biệt sau người chồng không được quyền ly hôn đơn phương:

  • Vợ mang thai;
  • Sinh con;
  • Nuôi con dưới 12 tháng.

Nếu cố tình nộp đơn, Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ trả lại đơn và từ chối thụ lý giải quyết.

Người chồng có được đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ xuất phát từ lý do:

  • Bảo vệ quyền lợi người phụ nữ trong giai đoạn sức khỏe và tâm lý có nhiều sự nhạy cảm;
  • Đảm bảo sự ổn định về tinh thần và điều kiện chăm sóc trẻ sơ sinh;
  • Tránh tạo áp lực, gây tổn thương cho mẹ và con khi gia đình tan vỡ trong thời điểm đặc biệt này.

Kết luận: Trong trường hợp vợ đang mang bầu hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, chồng không có quyền đơn phương ly hôn (kể cả khi quan hệ hôn nhân đang có mâu thuẫn rất nghiêm trọng).

1.2. Vợ có quyền đơn phương ly hôn khi đang mang bầu, nuôi con nhỏ không?

Khác với quy định hạn chế quyền của chồng (khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014), pháp luật không hạn chế quyền ly hôn của người vợ trong thời gian đang mang bầu hoặc nuôi con nhỏ.

Theo khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Người vợ hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn bất kỳ lúc nào nếu cho rằng đời sống hôn nhân không thể duy trì, mục đích hôn nhân không thể đạt được.

Lý do có sự khác biệt: Sự khác biệt này thể hiện rõ tư tưởng bảo vệ người phụ nữ. Pháp luật trao cho người vợ hoàn toàn có quyền quyền tự quyết định. Nếu cuộc hôn nhân trở nên không thể chịu đựng (ví dụ như do người chồng bạo lực, ngoại tình, không có trách nhiệm…) thì việc buộc người vợ phải duy trì quan hệ hôn nhân sẽ càng làm tổn hại thêm đến tinh thần và sức khỏe của cả hai mẹ con. Pháp luật được xem là “lá chắn” bảo vệ người vợ chứ không phải là “xiềng xích” trói buộc phụ nữ.

Tuy nhiên, để Tòa án thụ lý đơn đơn phương ly hôn trong trường hợp này thì người vợ cần chứng minh có đầy đủ căn cứ để ly hôn đơn phương theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014:

  • Căn cứ về việc chồng có hành vi bạo lực gia đình;
  • Người chồng vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Điều 4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP: “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng;
  • Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình;
  • Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau;
  • Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.

Kết luận: Người vợ hoàn toàn có quyền yêu cầu ly hôn trong giai đoạn mang thai hoặc nuôi con nhỏ nếu có đầy đủ căn cứ ly hôn đơn phương theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

1.3. Kết luận về quyền đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ:

Quyền đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ được xác định như sau:

  • Đối với người chồng: Bị hạn chế quyền đơn phương ly hôn khi vợ đang mang bầu hoặc nuôi con nhỏ;
  • Đối với người vợ: Vẫn có quyền đơn phương ly hôn chồng trong thời gian đang mang bầu hoặc nuôi con nhỏ (nếu có căn cứ yêu cầu đơn phương ly hôn).

Kết luận: Sự phân định quyền yêu cầu ly hôn rõ ràng giữa chồng và vợ trong trường hợp này vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vừa thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

2. Có được đơn phương ly hôn khi con còn nhỏ nhưng đã trên 12 tháng tuổi?

Sau khi con đã trên 12 tháng tuổi, người chồng sẽ không còn bị hạn chế nguyên ly hôn theo quy định của pháp luật. Khi đó người chồng nộp đơn, Tòa án sẽ thụ lý vụ án và tiến hành giải quyết thoe thủ tục chung.

Tuy nhiên, để được Tòa án chấp thuận cho ly hôn thì người chồng (với tư cách là người khởi kiện) phải chứng minh được các căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của mình là hợp pháp (khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Cụ thể:

2.1. Điều kiện để được Tòa án thụ lý giải quyết:

  • Chứng minh lỗi của người vợ. Ví dụ: Người vợ có hành vi bạo lực gia đình; hoặc vợ vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng (ví dụ: ngoại tình, không chung thủy, không quan tâm chăm sóc gia đình…);
  • Chứng minh hậu quả: Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;
  • Nghĩa vụ chứng minh thuộc về người chồng.

2.2. Các vấn đề cần xem xét của Tòa án trong quá trình giải quyết:

Mặc dù việc con còn nhỏ (trên 12 tháng) không phải là “rào cản” để nộp đơn ly hôn đơn phương trong trường hợp này nhưng đây cũng được xem là một yếu tố quan trọng sẽ được Hội đồng xét xử xem xét kỹ lưỡng trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là ở các khía cạnh sau:

  • Hòa giải: Tòa án sẽ tích cực hòa giải, khuyên các bên suy nghĩ lại vì tương lai của con trẻ;
  • Quyền nuôi con: Nếu không thể thỏa thuận, Tòa án sẽ dựa vào các căn cứ để quyết định ai là người trực tiếp nuôi con do con còn nhỏ;
  • Cấp dưỡng: Tòa án sẽ xem xét các yếu tố về thu nhập, điều kiện sống để quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho phù hợp với độ tuổi.

Kết luận: Người chồng sẽ không còn bị hạn chế quyền ly hôn (khi con đủ 12 tuổi) và hoàn toàn CÓ quyền đơn phương ly hôn khi con đã trên 12 tháng tuổi dù đứa trẻ vẫn còn nhỏ (ví dụ: 2, 3 hoặc 4 tuổi…).

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật về ly hôn đơn phương!
  • Hoặc liên hệ ngay Hotline: 058.7999997 để yêu cầu sử dụng dịch vụ Luật sư!

3. Quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn vợ đang mang bầu, nuôi con nhỏ:

Vấn đề này được đặt ra khi:

  • Người vợ làm đơn ly hôn đơn phương;
  • Có nhu cầu giành quyền nuôi con cũng như yêu cầu người chồng cấp dưỡng (kể cả trong trường hợp người vợ chưa sinh, đang mang bầu). 

3.1. Quyền ưu tiên đối với con nhỏ dưới 36 tháng tuổi:

Ly hôn trong giai đoạn vợ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp (khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014):

  • Người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
  • Cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Đồng thời, khoản 3 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP có hướng dẫn “người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” khi thuộc một trong những trường hợp sau:

  • Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
  • Có thu nhập mỗi tháng thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và không có tài sản nào khác để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
  • Người mẹ không có điều kiện về thời gian tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Kết luận: Ly hôn trong giai đoạn vợ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con sẽ ưu tiên giao cho mẹ, trừ một số trường hợp đặc biệt nêu trên.

3.2. Quyền nuôi con trong trường hợp con nhỏ trên 36 tháng tuổi:

Trong trường hợp ly hôn khi vợ đang nuôi con nhỏ (trên 36 tháng tuổi) thì quyền nuôi con sẽ:

Một là: Do các bên tự thỏa thuận (nếu có);

Hai là: Trong trường hợp không thể thỏa thuận, Tòa án sẽ xác định quyền nuôi con sau khi xem xét các yếu tố sau (khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP):

  • Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;
  • Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi;
  • Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;
  • Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;
  • Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con; 
  • Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;
  • Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ.

Kết luận: Ly hôn khi vợ đang nuôi con nhỏ (trên 36 tháng tuổi) thì quyền nuôi con sẽ không còn được ưu tiên giao cho mẹ, mà pháp luật sẽ tôn trọng sự tự thỏa thuận của hai bên. Nếu trong trường hợp hai bên cha mẹ không thể thỏa thuận thì Tòa án sẽ quyết định ai là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc con dựa trên những yếu tố đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con.

3.3. Chồng có phải cấp dưỡng khi ly hôn trong giai đoạn vợ đang mang bầu không?

Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.

Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Tuy nhiên về mặt pháp lý, chưa có bất kì quy định pháp luật nào công nhận thai nhi là con người, mặc dù có nhiều điều luật gián tiếp thừa nhận những quyền lợi của một thai nhi (ví dụ: Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền được hưởng thừa kế của thai nhi, theo đó người đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết thì vẫn được hưởng di sản thừa kế như những cá nhân khác cùng hàng thừa kế).

Vì vậy, thai nhi chưa được coi là một con người đầy đủ với đầy đủ năng lực pháp luật dân sự cho đến khi được sinh ra.

Pháp luật hôn nhân gia đình chỉ quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con trong trường hợp:

  • Con chưa thành niên;
  • Hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Kết luận: Người chồng không phải cấp dưỡng khi ly hôn trong giai đoạn vợ đang mang bầu (đứa trẻ chưa được sinh ra). Việc cấp dưỡng trong trường hợp này sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau và được thực hiện dựa trên tinh thần tự nguyện.

3.4. Chồng có phải cấp dưỡng khi ly hôn trong giai đoạn vợ đang nuôi con nhỏ không?

Theo Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Pháp luật bắt buộc sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Theo Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Pháp luật ưu tiên hai bên được tự thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng cho con sao cho phù hợp với khả năng kinh tế của các bên.

Nếu hai vợ chồng không tự thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thì có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định tuy nhiên không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con (khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP).

Mức lương tối thiểu vùng hiện nay đang được thực hiện theo Nghị định 128/2025/NĐ-CP (quy định về danh mục địa bàn cấp xã áp dụng lương tối thiểu vùng từ 01/7/2025).

Kết luận:

  • Người chồng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn trong giai đoạn vợ đang nuôi con nhỏ nếu không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con;
  • Mức cấp dưỡng sẽ do hai bên tự thỏa thuận với nhau;
  • Nếu hai vợ chồng không tự thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thì có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định một mức cấp dưỡng phù hợp.

4. Thủ tục ly hôn đơn phương khi đang mang bầu, nuôi con nhỏ:

Thủ tục ly hôn đơn phương trong trường hợp này bao gồm các bước sau:

4.1. Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ:

Hồ sơ ly hôn đơn phương của người vợ trong giai đoạn mang bầu hoặc nuôi con nhỏ cần bao gồm:

  • Đơn xin ly hôn đơn phương (theo mẫu);
  • Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;
  • Bản sao có chứng thực: chứng minh nhân dân/Căn cước công dân và sổ hộ khẩu của hai vợ chồng; giấy khai sinh của con (nếu con đã sinh);
  • Giấy tờ chứng minh tình trạng mang thai hoặc nuôi con nhỏ; sổ khám thai, giấy xác nhận của bệnh viện (nếu đang mang thai); giấy khai sinh của trẻ (nếu đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi);
  • Chứng cứ chứng minh mâu thuẫn hôn nhân trầm trọng: tin nhắn, ghi âm, hình ảnh về bạo lực gia đình, ngoại tình hoặc bỏ bê nghĩa vụ…;
  • Tài liệu liên quan đến tài sản chung (nếu có yêu cầu chia tài sản). 

4.2. Bước 2: Nộp hồ sơ tại Tòa án có thẩm quyền:

  • Tòa án nhân dân khu vực nơi bị đơn (người chồng) cư trú hoặc làm việc có thẩm quyền giải quyết;
  • Nếu hai bên có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. 

4.3. Bước 3: Thụ lý và nộp tạm ứng án phí:

  • Sau khi hồ sơ hợp lệ, Tòa án ra Thông báo thụ lý vụ án;
  • Người vợ nộp tiền tạm ứng án phí tại cơ quan thi hành án dân sự (theo quy định hiện hành khoảng 300.000 đồng đối với những vụ án ly hôn không có tranh chấp tài sản); 
  • Thời gian thông thường: từ 4 – 6 tháng kể từ ngày Tòa án thụ lý, có thể kéo dài nếu có tranh chấp về tài sản hoặc quyền nuôi con. 

5. Lời khuyên pháp lý khi muốn ly hôn trong giai đoạn đặc biệt này:

Ly hôn trong thời kỳ vợ mang thai hoặc nuôi con nhỏ là vấn đề nhạy cảm đòi hỏi phải tuân thủ quy định pháp luật và cân nhắc đến quyền lợi của trẻ em. Dưới đây là một số khuyến nghị quan trọng từ Luật sư:

5.1. Đối với người vợ:

  • Chỉ nên yêu cầu ly hôn khi hôn nhân thực sự không thể duy trì (ví dụ: bạo lực gia đình, ngoại tình, bỏ mặc nghĩa vụ…);
  • Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ để tránh bị yêu cầu bổ sung nhiều lần, đặc biệt là chứng cứ về mâu thuẫn để Tòa án chấp nhận yêu cầu;
  • Con dưới 36 tháng tuổi gần như ưu tiên giao cho mẹ, trừ một số trường hợp đặc biệt.

5.2. Đối với người chồng:

  • Hiểu rõ quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi để tránh mất thời gian;
  • Nên: Chờ hết thời hạn hạn chế và thỏa thuận thuận tình ly hôn nếu vợ đồng ý.

5.3. Lời khuyên chung từ Luật sư: 

  • Luôn đặt lợi ích của trẻ lên hàng đầu;
  • Nên nhờ sự hỗ trợ của luật sư chuyên về hôn nhân và gia đình để: tư vấn thời điểm nộp đơn hợp pháp; chuẩn bị hồ sơ đúng quy định; bảo vệ quyền lợi về con và tài sản.

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *