Trong nhiều vụ ly hôn, quyền nuôi con được Tòa án quyết định dựa trên điều kiện nuôi dưỡng tại thời điểm xét xử. Tuy nhiên, cuộc sống luôn biến động và hoàn cảnh của cha mẹ có thể thay đổi, nhiều người đang trực tiếp nuôi con ra nước ngoài làm việc, học tập hoặc định cư lâu dài. Vậy, có thể giành lại quyền nuôi con khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài không?
1. Giành lại quyền nuôi con khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài:
1.1. Vì sao giành lại quyền nuôi con khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài là vấn đề khó giải quyết?
Giành lại quyền nuôi con sau ly hôn là việc một bên cha hoặc mẹ đã từng không trực tiếp nuôi con theo phán quyết hoặc quyết định của Tòa án, nay có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con nhằm bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ.
Khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nahan gia đình 2014 quy định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Đây là quyền hợp pháp của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức khác khi có căn cứ chứng minh rằng người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ này. Trong bối cảnh một bên đi nước ngoài, yêu cầu giành lại quyền nuôi con thường gắn liền với việc chứng minh sự thay đổi căn bản về điều kiện nuôi dưỡng và khả năng chăm sóc trẻ.
Khác với những vụ thay đổi quyền nuôi con trong nước thông thường, trường hợp một bên ra nước ngoài tiềm ẩn yếu tố pháp lý và thực tiễn phức tạp hơn rất nhiều. Việc sinh sống ở nước ngoài có thể khiến người đang trực tiếp nuôi con gặp khó khăn trong việc chăm sóc hàng ngày, giám sát học tập và duy trì sự gắn kết tình cảm với con. Đồng thời, vụ việc mang yếu tố “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 sẽ làm làm thay đổi thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng.
Thực tế, không phải mọi trường hợp cha hoặc mẹ đi nước ngoài đều dẫn tới việc mất quyền nuôi con. Có người dù ở xa vẫn duy trì chăm sóc thông qua người giám hộ, gửi tiền cấp dưỡng và đảm bảo liên lạc thường xuyên. Ngược lại, cũng có trường hợp người ở nước ngoài bỏ mặc con, không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hay quan tâm dẫn tới tranh chấp gay gắt kéo dài. Khó khăn lớn nhất nằm ở việc thu thập chứng cứ chứng minh điều kiện nuôi con đã thay đổi cũng như chứng minh lợi ích tốt nhất của trẻ khi thay đổi quyền nuôi.
1.2. Vợ ra nước ngoài chồng có được giành lại quyền nuôi con không?
Khi ly hôn, vợ chồng được quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghãi vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp mà vợ chồng không thể thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi theo nguyên tắc sau đây (Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014):
- Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con nếu như con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho chính người mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ về những điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có những thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Sau ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có các quyền và nghĩa vụ sau đối với con (Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình 2014):
- Nghĩa vụ phải tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi;
- Phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con;
- Người mà không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở;
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án để hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Tuy nhiên, không phải người được quyền trực tiếp nuôi con sau ly hôn thì sẽ mãi được quyền trực tiếp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Pháp luật cũng đã quy định về những trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, vấn đề này được quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con mà pháp luật đã quy định, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong những căn cứ sau đây:
+ Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với các lợi ích của con;
+ Người trực tiếp nuôi con không còn đủ các điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên;
- Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì khi đó Tòa án sẽ quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015;
- Trong trường hợp có căn cứ người trực tiếp nuôi con không còn đủ về những điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan và tổ chức nêu ở dưới đây có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
+ Những người thân thích;
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
+ Tổ chức là Hội liên hiệp phụ nữ.
Theo quy định trên thì căn cứ thay đổi người trực tiếp nuôi con đó là:
- Cha, mẹ thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với các lợi ích của con;
- Người trực tiếp nuôi con không còn các đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con có thể được thể hiện qua những vấn đề sau:
+ Thời gian dành cho con (chơi với con, dạy con học…);
+ Điều kiện về kinh tế;
+ Điều kiện về môi trường sống…
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp một bên đang là người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nhưng sau đó lại ra nước ngoài làm việc trong một thời gian dài thì khi đó một số các điều kiện để trực tiếp nuôi con đã không còn phù hợp (ví dụ: điều kiện về thời gian dành cho con để chăm sóc, nuôi dạy con…).
Chính vì thế, nếu trong trường hợp này thì người còn lại (người đang không trực tiếp nuôi con) có thể thực hiện các thủ tục để giành lại quyền trực tiếp nuôi con.
Có hai phương thức để giành lại quyền nuôi con khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài là:
- Hai cha mẹ thỏa thuận với nhau về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, sau đó thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận về thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con;
- Một bên còn lại (người đang không trực tiếp nuôi con) thực hiện thủ tục khởi kiện tại Tòa án để thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật về quyền nuôi con!
- Hoặc liên hệ: 058.7999997 để sử dụng dịch vụ Luật sư giành quyền nuôi con!
2. Thủ tục giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài:
2.1.Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài:
Người cha (người đang không trực tiếp nuôi con) khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con khi một bên ra nước ngoài chuẩn bị bộ hồ sơ bao gồm những giấy tờ sau:
- Đơn khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
- Chứng minh nhân dân/căn cước công dân/hộ chiếu của cha và mẹ (bản sao có chứng thực);
- Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con;
- Bản án/quyết định ly hôn (bản sao có chứng thực);
- Bằng chứng, chứng cứ chứng minh người mẹ (người đang trực tiếp nuôi con) không còn đủ về điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con (ví dụ: giấy tờ chứng minh người mẹ chuẩn bị ra nước ngoài làm việc lâu dài…).
2.2. Nộp hồ sơ khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài:
Sau khi chuẩn bị đầy đủ hồ sơ cần thiết thì người khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân khu vực nơi người đang trực tiếp nuôi con cư trú hoặc làm việc (nếu người đang trực tiếp nuôi con đang ở Việt Nam).
Phương thức nộp hồ sơ gồm:
- Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ của Tòa án có thẩm quyền;
- Nộp hồ sơ qua đường bưu điện;
- Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
2.3. Tòa án nhận và xử lý đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài:
- Nhận đơn khởi kiện thay đổi quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và ghi vào sổ nhận đơn;
- Tòa án xác nhận đã nhận đơn khởi kiện thay đổi quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
- Xem xét đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện;
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài và ra quyết định xử lý đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung, thụ lý, chuyển đơn hoặc trả lại đơn).
2.4. Thụ lý vụ án:
- Sau khi nhận được đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài thì Tòa án phải xem xét những tài liệu, chứng cứ cần thiết (ví dụ: giấy tờ chứng minh người mẹ chuẩn bị ra nước ngoài làm việc lâu dài…) mà người khởi kiện cung cấp trong hồ sơ khởi kiện;
- Nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho người khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài biết để nộp tiền tạm ứng án phí;
- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài phải nộp tiền tạm ứng án phí;
- Tòa án thụ lý đơn khởi kiện giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài kể từ khi nhận được biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
2.5. Đưa vụ án giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài ra xét xử sơ thẩm:
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài ra xét xử sơ thẩm, Tòa án phải mở phiên tòa. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn để mở phiên tòa xét xử sẽ có thể được kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Lưu ý rằng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án giành lại quyền nuôi con khi một bên ra nước ngoài, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải tiến hành:
- Lấy lời khai của các đương sự;
- Tiến hành các phiên họp thực hiện kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai các chứng cứ;
- Hòa giải giữa hai bên;
- Tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ hoặc ủy thác thu thập chứng cứ (nếu có);
- Xem xét nguyện vọng của con (nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên).
3. Điều kiện để Tòa án thay đổi quyền nuôi con khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài:
3.1. Một bên đi nước ngoài làm việc, học tập hoặc định cư lâu dài:
Việc một bên ra nước ngoài trong thời gian dài có thể được coi là yếu tố làm thay đổi đáng kể điều kiện trực tiếp nuôi con.
Theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Tòa án chỉ xem xét thay đổi người nuôi con nếu có căn cứ cho thấy việc thay đổi này là cần thiết vì lợi ích của trẻ.
Nếu việc đi nước ngoài khiến cha hoặc mẹ không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc hàng ngày. Đây là một căn cứ quan trọng để yêu cầu thay đổi quyền nuôi.
3.2. Bên đang trực tiếp nuôi không còn đủ điều kiện chăm sóc:
Điều kiện chăm sóc không chỉ bao gồm khả năng kinh tế, mà còn cả thời gian, sức khỏe, sự gắn bó tình cảm và môi trường sống.
Nếu người ở nước ngoài không thể đảm bảo việc nuôi dưỡng trực tiếp và phó mặc hoàn toàn cho ông bà hoặc người thân thì Tòa án có thể xác định đây là tình huống “không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi con” và chấp nhận yêu cầu thay đổi.
Tuy nhiên, để đạt được điều này, người yêu cầu phải cung cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh sự thiếu hụt về điều kiện nuôi dưỡng của bên kia.
3.3. Lợi ích tốt nhất của trẻ khi thay đổi quyền nuôi:
Nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ được đặt lên hàng đầu trong mọi quyết định liên quan đến quyền nuôi con. Tòa án sẽ cân nhắc xem việc chuyển quyền nuôi sang cho người yêu cầu có mang lại môi trường sống tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần cho trẻ hay không.
Ví dụ: Nếu bên yêu cầu có điều kiện kinh tế ổn định, thời gian chăm sóc nhiều hơn, môi trường sống gần trường học và phù hợp cho sự phát triển toàn diện của trẻ và khả năng giành lại quyền nuôi sẽ cao hơn.
4. Các bằng chứng cần chuẩn bị khi giành lại quyền nuôi con nếu vợ hoặc chồng đi nước ngoài:
4.1. Giấy tờ chứng minh bên kia đang ở nước ngoài:
Đây là bước đầu tiên và bắt buộc, vì nó chứng minh sự thay đổi hoàn cảnh nuôi con so với thời điểm Tòa án ban hành quyết định ban đầu. Người yêu cầu cần thu thập các tài liệu như:
- Bản sao hộ chiếu có dấu xuất nhập cảnh;
- Giấy phép lao động;
- Giấy tạm trú hoặc giấy xác nhận từ cơ quan chức năng về việc bên kia đang cư trú tại nước ngoài.
Nếu không có tài liệu trực tiếp thì bên còn lại có thể sử dụng các chứng cứ gián tiếp như: Thông tin từ cơ quan quản lý xuất nhập cảnh, công ty nơi bên kia làm việc ở nước ngoài hoặc thư từ, tin nhắn có xác nhận địa điểm cư trú… Những chứng cứ này giúp Tòa án thấy rõ thực trạng là người đang trực tiếp nuôi con không ở trong nước, từ đó ảnh hưởng đến khả năng chăm sóc hàng ngày của con.
4.2. Tài liệu chứng minh điều kiện nuôi dưỡng của mình vượt trội hơn:
Tòa án không chỉ dựa vào việc bên kia đi nước ngoài để quyết định thay đổi quyền nuôi mà còn cần thấy rõ bên yêu cầu có điều kiện nuôi dưỡng tốt hơn. Các tài liệu nên chuẩn bị gồm:
- Hợp đồng lao động;
- Bảng lương;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê nhà ổn định;
- Hóa đơn học phí, bảo hiểm y tế của con…
Điều này cho thấy người yêu cầu có khả năng cung cấp môi trường sống ổn định, an toàn và phù hợp cho sự phát triển của trẻ.
4.3. Bằng chứng về việc bên kia không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nuôi dưỡng:
Ngoài việc chứng minh điều kiện của mình, người yêu cầu cần đưa ra bằng chứng về việc bên kia vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc bỏ bê con. Có thể sử dụng các chứng cứ như:
- Biên bản làm việc của chính quyền địa phương;
- Xác nhận của hàng xóm, trường học;
- Hoặc hồ sơ bệnh viện nếu con bị bỏ mặc chăm sóc y tế.
Trong trường hợp bên kia vẫn gửi tiền cấp dưỡng nhưng không tham gia vào quá trình chăm sóc tinh thần và tình cảm cho con. Điều này cũng có thể được xem xét để đánh giá mức độ gắn bó và lợi ích tốt nhất của trẻ.
5. Lời khuyên giúp bảo vệ quyền lợi giành quyền nuôi con của khi vợ hoặc chồng đi nước ngoài:
5.1. Chuẩn bị đầy đủ hồ sơ và bằng chứng từ sớm:
Việc chuẩn bị hồ sơ đầy đủ và có hệ thống sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết. Người yêu cầu nên sớm thu thập các giấy tờ chứng minh bên kia đang ở nước ngoài, chứng minh điều kiện nuôi dưỡng của mình và các tài liệu liên quan đến việc bên kia không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chăm sóc.
Hồ sơ càng rõ ràng và mạch lạc thì Tòa án càng dễ dàng thẩm định và ra quyết định.
5.2. Sử dụng dịch vụ Luật sư có kinh nghiệm trong vụ việc có yếu tố nước ngoài:
Các vụ thay đổi quyền nuôi con có yếu tố nước ngoài đòi hỏi sự am hiểu không chỉ pháp luật hôn nhân và gia đình mà còn cả quy định tố tụng dân sự liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Luật sư có kinh nghiệm sẽ hỗ trợ thu thập chứng cứ hợp pháp và soạn thảo hồ sơ đúng quy định, đồng thời theo sát vụ việc để xử lý các tình huống phát sinh như: vắng mặt đương sự, khó khăn tống đạt giấy tờ… hoặc tranh luận tại phiên Tòa.
5.3. Biện pháp tạm thời để bảo đảm quyền lợi của trẻ trong thời gian chờ giải quyết:
Trong thời gian chờ Tòa án ra quyết định thay đổi quyền nuôi con, người yêu cầu có thể đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như: giao tạm thời con cho mình chăm sóc nếu có căn cứ cho rằng ở với bên kia (hoặc với người được ủy quyền nuôi thay) sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ… Việc áp dụng biện pháp tạm thời này giúp đảm bảo an toàn và ổn định cho con, tránh rủi ro bị bỏ mặc hoặc chăm sóc không đầy đủ.