Trường hợp nào cha và mẹ đều không có quyền nuôi con?

Trong mọi quyết định liên quan đến con cái, pháp luật Việt Nam luôn đặt nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ” lên hàng đầu. Thông thường khi ly hôn, quyền nuôi con sẽ được giao cho một trong hai người. Tuy nhiên thực tế có nhiều trường hợp đặc biệt cả hai bên đều không có quyền nuôi con. Vậy, trường hợp nào cha và mẹ đều không có quyền nuôi con?

1. Những trường hợp cha và mẹ đều không có quyền nuôi con khi ly hôn:

Căn cứ theo quy định tại Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cha mẹ hoàn toàn có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con trong quá trình ly hôn, nếu hai vợ chồng không thể thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên trong một số trường hợp, xem xét trên nhiều khía cạnh thì cả 02 cha mẹ đều không có quyền nuôi con. Có thể kể đến 02 trường hợp cha mẹ đều không có quyền nuôi con như sau:

Thứ nhất, cha và mẹ đều không đủ điều kiện để có thể trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục và trông nom con cái sau thời kỳ ly hôn. Tức là cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện để có thể lo cho con được một cuộc sống ổn định và đáp ứng nhu cầu phát triển của một đứa trẻ. Căn cứ theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, trong quá trình ly hôn, cha và mẹ đều không được quyền nuôi con nếu không đáp ứng được các điều kiện sau đây:

  • Về mặt kinh tế, cả hai cha mẹ đều không có công ăn việc làm ổn định, và không có các khoản thu nhập trên thực tế, không có chỗ ở để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của con cái …;
  • Về mặt tinh thần, cả hai cha mẹ đều không chăm nom và chăm sóc, không nuôi dưỡng và giành thời gian giáo dục con cái;
  • Về mặt năng lực hành vi dân sự, cả hai cha mẹ đều bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc mắc các bệnh về tâm thần, mắc các chứng bệnh khác dẫn đến khả năng không thể nhận thức và không điều khiển được hành vi, không thể tiến hành hoạt động chăm sóc con cái.

Thứ hai, cha và mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Tức là nếu như cha mẹ của bạn thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 85 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, và đồng thời có bản án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc tuyên bố hạn chế quyền của cha mẹ đối với con, thì cả hai cha mẹ đều không có quyền nuôi con trong quá trình ly hôn. Cụ thể, Điều 85 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Theo đó thì cha mẹ sẽ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong những trường hợp cơ bản sau đây:

Cha mẹ bị kết án về một trong các tội xâm phạm đến tính mạng hoặc sức khỏe, xâm phạm đến danh dự hoặc nhân phẩm của người con với lỗi cố ý, tức là biết hành vi của mình là trái quy định của pháp luật và có thể gây ra hậu quả trên thực tế, nhưng vẫn thực hiện hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra, hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng đến nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giáo dục con cái;

  • Phá tán tài sản của con trái quy định của pháp luật;
  • Có lối sống đồi trụy và đi ngược với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam;
  • Có hành vi xúi giục hoặc ép buộc con dưới bất kỳ hình thức nào để con cái làm những công việc trái quy định của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Xem thêm:  Bảo đảm quyền nuôi con, chia tài sản của phụ nữ khi ly hôn

Căn cứ vào từng trường hợp khác nhau mà cơ quan nhà nước có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cơ quan và tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để có thể ra quyết định, không cho cha mẹ chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con cái và quản lý tài sản riêng của con, hoặc không được làm đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Và tòa án hoàn toàn có thể xem xét để rút ngắn khoảng thời gian này.

  • Gọi ngay: 1900.6586 để được Luật sư tư vấn pháp luật về quyền nuôi con!
  • Hoặc liên hệ: 058.7999997 để sử dụng dịch vụ Luật sư hôn nhân và gia đình!

2. Cha mẹ ly hôn đều không có quyền nuôi con thì ai sẽ có quyền nuôi dưỡng?

Trong trường hợp nếu xét thấy, những người đang trực tiếp nuôi con không đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục đứa trẻ thì những người giám hộ đương nhiên của đứa trẻ hoàn toàn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Nếu trong trường hợp đứa trẻ đã trên 07 tuổi thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ xem xét nguyện vọng của đứa trẻ về việc thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng. 

Cụ thể, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ được giải quyết khi có một trong các căn cứ theo quy định của pháp luật như sau:

  • Cha mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của đứa trẻ;
  • Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để có thể trực tiếp chăm nom và giáo dục đứa trẻ;
  • Việc xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con phải căn cứ vào nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên;
  • Trong trường hợp xét thấy cả cha và cả mẹ đều không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.

Như vậy có thể nói, khi Tòa án tuyên cả cha và cả mẹ đều không đủ điều kiện để nuôi con thì đứa trẻ sẽ được giao cho người giám hộ theo quy định về giám hộ tại Điều 52 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, người giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên sẽ được xác định là:

  • Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột được xác định là chị cả sẽ được coi là người giám hộ, nếu anh cả hoặc chị cả không đủ điều kiện để được làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo sẽ là người giám hộ, trường hợp có thỏa thuận anh ruột chị ruột khác làm người giám hộ;
  • Trong trường hợp không còn người giám hộ là anh ruột hoặc chị ruột, thì ông bà nội và ông bà ngoại sẽ được xác định là người giám hộ hoặc những người này sẽ tự thỏa thuận với nhau để cử ra một hoặc một số người trong số họ sẽ đứng ra làm người giám hộ cho con chưa thành niên;
  • Trong trường hợp không có những người giám hộ nêu trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột sẽ được xác định là người giám hộ đương nhiên cho con chưa thành niên.

Ngoài ra, Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Ông bà nội, ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 105 của Luật Hôn nhân gia đình thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.

Điều 105 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.

Xem thêm:  Bằng chứng chứng minh giành lại quyền nuôi con sau ly hôn

Điều 106 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ, con và những người được quy định tại Điều 104 và Điều 105 của Luật Hôn nhân và gia đình hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Kết luận: Nếu cả hai cha và mẹ đều không đủ điều kiện hoặc bị hạn chế quyền nuôi con, Tòa án sẽ ra quyết định giao con cho người giám hộ chăm sóc và nuôi dưỡng.

Việc cử người giám hộ được ưu tiên theo thứ tự sau đây theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

  • Anh, chị ruột: Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả. Nếu họ không đủ điều kiện thì anh, chị ruột tiếp theo sẽ là người giám hộ;
  • Ông, bà nội hoặc ông, bà ngoại: Nếu không có anh, chị ruột đủ điều kiện thì ông bà nội, ngoại sẽ là người giám hộ;
  • Người khác: Nếu không có những người thân thích trên hoặc họ không đủ điều kiện, Tòa án sẽ cử một cá nhân hoặc tổ chức khác có đủ tư cách và điều kiện làm người giám hộ vì lợi ích của đứa trẻ.

Mục tiêu cao nhất của pháp luật luôn là đảm bảo cho đứa trẻ được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và phát triển toàn diện về mọi mặt.

3. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ gì?

Pháp luật về hôn nhân gia đình hiện nay quy định khả cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con và con đối với cha mẹ.

Căn cứ theo quy định tại Điều 71 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi lấy chính bản thân mình.

Điều 81 của Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom và giáo dục con sau khi ly hôn:

  • Khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên. Vợ chồng hoàn toàn có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con và thỏa thuận về quyền/nghĩa vụ của mỗi bên dành cho con sau khi ly hôn;
  • Trong trường hợp 02 bên vợ chồng không thể thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi phát triển mọi mặt của đứa trẻ;
  • Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì sẽ phải xem xét nguyện vọng của đứa trẻ đó;
  • Con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không có đủ khả năng và không đủ điều kiện để chăm sóc/nuôi dưỡng con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Điều 82 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về việc cha mẹ không trực tiếp nuôi con:

  • Cha mẹ không trực tiếp nuôi con sẽ phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được chung sống với người đang trực tiếp luôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con cũng sẽ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái;
  • Sau khi ly hôn thì người không trực tiếp nuôi con sẽ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con không được quyền lạm dụng việc thăm con để con cho vào cái ảnh hưởng xấu đến quá trình giáo dục và nuôi dưỡng đứa trẻ;
  • Nếu cha mẹ có hành vi vi phạm thì người đang trực tiếp nuôi đứa trẻ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của cha mẹ. 

Ngoài ra, Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng với các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong quá trình chăm sóc và giáo dục con cái.

Kết luận: Trong trường hợp cha mẹ không có quyền nuôi con thì vẫn sẽ có quyền thăm con và cấp dưỡng cho con, phải có nghĩa vụ không được cản trở quá trình chăm con của người đang trực tiếp nuôi đứa trẻ. Quy định này nhằm đảm bảo cuộc sống của người con sau khi cha mẹ ly hôn, bảo đảm cho đứa trẻ được phát triển bình thường như những đứa trẻ khác và giảm thiểu tổn thương.

Xem thêm:  Mẫu đơn nhường quyền nuôi con, nhượng quyền nuôi con

4. Cách xác định cha và mẹ không còn quyền nuôi con trong thực tiễn xét xử:

4.1. Quy trình khởi kiện hoặc yêu cầu tước quyền nuôi con:

Điều 86 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:

  • Người thân thích;
  • Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
  • Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
  • Hội liên hiệp phụ nữ.

Quy trình gồm: Nộp đơn yêu cầu, cung cấp chứng cứ và tham gia phiên tòa để Tòa xem xét tính hợp pháp, hợp lý của yêu cầu.

4.2. Thu thập và trình bày chứng cứ trước Tòa án:

Chứng cứ là yếu tố then chốt để Tòa án quyết định có tước quyền nuôi con hay không. Trong trường hợp yêu cầu tước quyền nuôi của cả cha và mẹ, người yêu cầu cần cung cấp bằng chứng rõ ràng về việc cả hai đều vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc gây nguy hại cho con. Chứng cứ có thể gồm:

  • Biên bản xử phạt hành chính về bạo lực gia đình;
  • Kết luận giám định thương tích;
  • Hồ sơ y tế;
  • Xác nhận của cơ quan chức năng về việc cha mẹ nghiện ma túy hoặc phạm tội.

4.3. Vai trò của cơ quan bảo vệ trẻ em, tổ chức xã hội và chính quyền địa phương:

Trong thực tế, chính quyền địa phương, cơ quan bảo vệ trẻ em và các tổ chức xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát, phát hiện và báo cáo các trường hợp trẻ bị xâm hại quyền lợi.

Khi có căn cứ về việc trẻ em bị xâm phạm quyền lợi, họ có thể trực tiếp làm đơn yêu cầu Tòa án tước quyền nuôi con của cha mẹ. 

Ngoài ra, họ còn tham gia với tư cách người giám hộ tạm thời hoặc đề xuất phương án chăm sóc trẻ sau khi quyền nuôi con bị tước.

5. Một số lưu ý thực tiễn để tránh bị tước quyền nuôi con:

5.1. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con:

Điều cơ bản nhất để tránh bị tước quyền nuôi con là cha mẹ phải thường xuyên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định.

Điều này bao gồm việc: Bảo đảm con được ăn uống đầy đủ, học tập, chăm sóc y tế… cũng như tạo môi trường sống ổn định và an toàn. 

Việc bỏ mặc con cái và không cấp dưỡng hoặc không quan tâm đến đời sống của con trong thời gian dài là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét tước quyền nuôi con trên thực tế.

5.2. Tránh các hành vi bạo lực gia đình hoặc môi trường sống nguy hại cho con:

Bạo lực gia đình, xâm hại thân thể, tinh thần của con hoặc để con sống trong môi trường nguy hiểm (như nơi có tệ nạn xã hội, thường xuyên có người sử dụng ma túy, đánh nhau…) là yếu tố khiến Tòa án dễ dàng tước quyền nuôi con của cả cha lẫn mẹ.

Do đó cha mẹ cần kiểm soát hành vi, tránh nóng giận quá mức và tạo môi trường tích cực cho con phát triển.

5.3. Hợp tác với cơ quan chức năng trong việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em:

Khi có sự can thiệp của cơ quan bảo vệ trẻ em, chính quyền địa phương hoặc tổ chức xã hội, cha mẹ nên hợp tác cung cấp thông tin để chứng minh mình có đủ điều kiện chăm sóc con.

Sự thiếu hợp tác hoặc cố tình gây cản trở có thể khiến Tòa án đánh giá tiêu cực về trách nhiệm nuôi dưỡng và từ đó dẫn đến việc đưa ra quyết định tước quyền nuôi con trên thực tế. 

Đội ngũ Luật sư, Chuyên viên của Luật Dương Gia

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

LUẬT SƯ VŨ VĂN HUÂN

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Phú Yên. Luật sư Vũ Văn Huân đã có hơn 20 năm công tác làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

LUẬT SƯ NGUYỄN THỊ YẾN

Luật sư Nguyễn Thị Yến là Luật sư thành viên, Phó trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia tại TPHCM và đã có gần 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

LUẬT SƯ NGUYỄN ĐỨC THẮNG

Luật sư Nguyễn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng chi nhánh Công ty Luật TNHH Dương Gia chi nhánh Đà Nẵng; Có 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH InvestConsult; 10 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; 02 năm kinh nghiệm làm việc tại Công ty luật TNHH Dương Gia.

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

LUẬT SƯ ĐINH THÙY DUNG

Luật sư Đinh Thùy Dung hiện giữ chức vụ Giám đốc điều hành Công ty Luật TNHH Dương Gia. Luật sư Đinh Thùy Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc tư vấn hỗ trợ về pháp luật.

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

LUẬT SƯ ĐOÀN VĂN BA

Nguyên Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng. Luật sư đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong công tác pháp luật.

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

LUẬT SƯ ĐỖ XUÂN TỰU

Luật sư Đỗ Xuân Tựu hiện đang là Cố vấn cao cấp của Công ty Luật TNHH Dương Gia

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

LUẬT SƯ NGUYỄN VĂN DƯƠNG

Luật sư Nguyễn Văn Dương là Giám đốc công ty Luật TNHH Dương Gia và đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hành nghề, tư vấn pháp luật.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *